Hướng dẫn giải: bài 1: Hiện thực lịch sử và nhận thức lịch sử môn lịch sử SBT lịch sử 10. Đây là vở bài tập nằm trong bộ sách "kết nối tri thức" được biên soạn theo chương trình đổi mới của Bộ giáo dục. Hi vọng, với cách hướng dẫn cụ thể và giải chi tiết học sinh sẽ nắm bài học tốt hơn.
Nhưng bài thơ không để lại cảm giác bi thương, nặng nề nhờ cách tác giả cảm nhận và khắc họa hình tượng người chiến sĩ đã hi sinh. Anh vẫn ở bên đồng đội trên con đường chiến đấu: “Anh thành ngọn lửa/ Bạn bè mang theo”.
Bài viết ngày hôm nay chúng tôi xin chia sẻ tới các bạn ví dụ trong Triết học về nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Để các bạn hiểu rõ hơn về hai khái niệm này.
Hãy nhìn hình bên dưới và để ý cho thật kỹ, ngoài 5 giác quan thường thấy trong những quyển sách giáo khoa sinh học là Mắt (Nhãn), Tai (Nhĩ), Mũi (Tỷ), Lưỡi (Thiệt), Xúc giác (Thân), chúng ta còn có thêm một giác quan nữa là Ý. Và cũng giống như việc Mắt tiếp nhận hình
Lời giải bài tập Lịch Sử lớp 10 Bài 1: Lịch sử hiện thực và nhận thức lịch sử sách Kết nối tri thức ngắn gọn, chi tiết sẽ giúp học sinh dễ dàng trả lời câu hỏi Lịch Sử 10 Bài 1 từ đó học tốt môn Sử 10.
rnBZte. Đề cương ôn tập môn Tâm lý học đại cươngVnDoc xin giới thiệu bài Nhận thức cảm tính được chúng tôi sưu tầm và giới thiệu nhằm giúp các bạn nắm bắt kiến thức môn học một cách tốt hơn để có thể học và hoàn thành bài thi môn học một cách hiệu ý Nếu bạn muốn Tải bài viết này về máy tính hoặc điện thoại, vui lòng kéo xuống cuối bài Nhận thức cảm tính1. Khái niệm chung về cảm giác và tri Định nghĩa về cảm giác và tri Những đặc điểm cơ bản của cảm giác và tri Vai trò của cảm giác và tri giác2. Các quy luật cơ bản cảm giác và tri Các quy luật của cảm Các quy luật của tri giác3. Tính nhạy cảm và năng lực quan sát là những thuộc tính của nhân cách1. Khái niệm chung về cảm giác và tri Định nghĩa về cảm giác và tri giácMỗi sự vật, hiện tượng xung quanh ta đều được bộc lộ bởi hàng loạt các thuộc tính bề ngoài như màu sắc, hình dáng, kích thước, mùi vị hoặc âm thanh... Những thuộc tính này tác động đến từng giác quan của chúng ta và cho ta những cảm giác cụ thể. Từ những cảm giác cụ thể, riêng lẻ trên cơ sở kinh nghiệm mà con người có những hình ánh về đối tượng, tức là con người có tri giác về đối tượng. Ví dụ Nếu ta yêu cầu một người nhắm mắt lại rồi xòe ngửa bàn tay ra, ta đặt nhẹ vào lòng bàn tay họ một vật nhỏ và yêu cầu không được nắm tay lại để sờ mó sự vật đó thì chắc chắn họ sẽ không biết chính xác đó là vật gì, hình dáng, kích thước ra sao mà chỉ có thể biết được vật đó nặng hay nhẹ, nóng hay lạnh... nghĩa là chỉ mới phản ánh được từng thuộc tính bổ ngoài đang trực tiếp tác động vào lòng bàn tay, tức là mới có cảm giác về từng thuộc tính bề cũng ví dụ trên, sau khi đặt lên lòng bàn tay người đó một vật nhỏ, ta cho phép họ nắm tay lại, sờ mó đồ vật, thì lúc đó họ có thể nói được tên đồ vật ấy là gì, hình dạng, kích thước... của nó ra sao. Điều này có nghĩa là khi tiếp xúc với nhiều thuộc tính của đồ vật, người đó có thể phản ánh được một cách đầy đủ, trọn vẹn hơn các thuộc tính của nó, tức là anh ta đã tri giác được đồ vật. Vậy cảm giác, tri giác là gì?Cảm giác là quá trình tâm lí phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính của sự vật, hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của chúng giác là quá trình tâm lí phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của chúng Những đặc điểm cơ bản của cảm giác và tri giácTuy cùng nằm trong mức độ nhận thức cảm tính, song cảm giác và tri giác có những đặc điểm riêng mặc dù chúng có mối quan hệ mật thiết, chi phối lẫn nhau trong quá trình phản ánh các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện Những đặc điểm cơ bản của cảm giácCảm giác có những đặc điểm cơ bản sau đâyCảm giác là một quá trình tâm lí, nghĩa là có mở đầu, diễn biến và kết thúc một cách rõ ràng, cụ thể. Cảm giác nảy sinh, diễn biến khi sự vật, hiện tượng khách quan hoặc một trạng thái nào đó của cơ thể đang trực tiếp tác động vào giác quan của chúng ta. Khi kích thích ngừng tác động thì cảm giác cũng dừng giác chỉ phản ánh từng thuộc tính cụ thể của sự vật, hiện tượng thông qua hoạt động của từng giác quan riêng lẻ. Do vậy, cảm giác chưa phản ánh được một cách trọn vẹn, đầy đủ các thuộc tính của sự vật, hiện tượng. Nghĩa là, cảm giác mới chỉ cho ta từng cảm giác cụ thể, riêng lẻ về từng thuộc tính của vật kích thích. Mỗi kích thích tác động vào cơ thể cho ta một cảm giác tương giác của con người khác xa về chất so với cảm giác của con vật. Điểm khác nhau cơ bản là cảm giác của con người mang bản chất xã hội. Bản chất xã hội của cảm giác của con người được thể hiện như sauĐối tượng phản ánh của cảm giác ở người không chỉ là những thuộc tính của sự vật, hiện tượng vốn có trong thế giới mà còn phản ánh những thuộc tính của sự vật, hiện tượng do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động và giao chế sinh lí của cảm giác ở người không chỉ phụ thuộc vào hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ nhất mà còn chịu sự chi phối bởi hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ hai - hệ thống tín hiệu ngôn giác ở người chỉ là mức độ định hướng đầu tiên, sơ đẳng nhất, chứ không phải là mức độ cao nhất, duy nhất như ở một số loài động vật. Cảm giác ở người chịu ảnh hưởng của nhiều hiện tượng tâm lí khác của con giác của người được phát triển mạnh mẽ và phong phú dưới ảnh hưởng của hoạt động và giáo dục, tức là cảm giác của người được tạo ra theo phương thức đặc thù của xã hội, do đó mang đặc tính xã dụ Nhờ hoạt động nghề nghiệp mà có người thợ “đo” được bằng mắt, người đầu bếp “nếm” được bằng mũi, người giáo viên có thể “nhìn” được bằng tai ý thức học tập của học sinh sau lưng Những đặc điểm cơ bản của tri giácTri giác được hình thành và phát triển trên cơ sở những cảm giác, nhưng tri giác không phải là phép cộng đơn giản của các cảm giác, mà là sự phản ánh cao hơn so với cảm giác. Do vậy, tri giác cũng có những đặc điểm giống với cảm giác, nhưng cũng có những đặc điểm khác với cảm giác có những đặc điểm giống với cảm giác nhưTri giác cũng là một quá trình tâm lí tức là có nảy sinh, diễn biến và kết thúc phản ánh những thuộc tính trực quan, bề ngoài của sự vật, hiện giác cũng chỉ phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp khi chúng tác động vào các giác quan của chúng điểm khác nhau cơ bản giữa cảm giác và tri giácNếu cảm giác phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính bề ngoài của sự vật, hiện tượng thì tri giác phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật, hiện tượng. Tính trọn vẹn của tri giác là do tính trọn vẹn của bản thân sự vật, hiện tượng quy định. Kinh nghiệm có ý nghĩa rất lớn đối với tính trọn vẹn này, nên chỉ cần tri giác một số thành phần riêng lẻ của sự vật, hiện tượng, ta cũng có thể tổng hợp chúng thành một hình ảnh trọn vẹn của sự vật, hiện tượng. Sự tổng hợp này được thực hiện trên cơ sở phối hợp của nhiều cơ quan phân giác phản ánh sự vật, hiện tượng theo những cấu trúc nhất định. Cấu trúc này không phải là tổng số các cảm giác mà là sự khái quát đã được trừu xuất từ các cảm giác đó trong mối liên hệ qua lại giữa các thành phần của cấu trúc ấy ở một khoảng thời gian nào đó. Ví dụ Nhìn một bức tranh, trẻ hiểu được bức tranh đó vẽ công viên, trường học hay một cánh đồng vì các hình vẽ nằm trong một cấu trúc nhất định, có mối quan hệ qua lại xác định, do đó chúng tạo nên một bức tranh tổng thể công viên, trường học hay cánh đồng.... Sự phản ánh này không phải đã có từ trước mà nó diễn ra trong quá trình tri giác. Đó là tính kết cấu của tri giác là quá trình tích cực được gắn liền với hoạt động của con người. Tri giác mang tính tự giác, giải quyết một nhiệm vụ nhận thức cụ thể nào đó, là một hành động tích cực, trong đó có sự kết hợp các yếu tố của cảm giác và vận Những đặc điểm chung của nhận thức cảm tínhTừ sự phân tích những đặc điểm giống nhau và khác nhau giữa cảm giác và tri giác, chúng ta có thể nêu lên những đặc điểm chung của nhận thức cảm tính như sauNội dung phản ánh của nhận thức cảm tính là những thuộc tính trực quan, cụ thể, bề ngoài của sự vật, những mối liên hệ và quan hệ về không gian, thời gian chứ chưa phải là những thuộc tính bên trong, bản chất, những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của hàng loạt sự vật, hiện tượng trong thế thức phản ánh của nhận thức cảm tính là phản ánh trực tiếp bằng các giác quan chứ chưa phải là gián tiếp, khái quát bằng ngôn ngữ mặc dù trong nhận thức cảm tính của con người chịu ảnh hưởng của những tác động ngôn ngữ.Sản phẩm của hoạt động nhận thức cảm tính là những hình ảnh cụ thể, trực quan về thế giới, chứ chưa phải là những khái niệm, quy luật về thế đặc điểm trên đây cho thấy, nhận thức cảm tính mới chỉ là mức độ nhận thức ban đầu, sơ đẳng trong toàn bộ hoạt động nhận thức của con Vai trò của cảm giác và tri giáca. Vai trò của cảm giácTrong cuộc sống nói chung và trong hoạt động nhận thức nói riêng của con người, cảm giác có những vai trò quan trọng như sauCảm giác là hình thức định hướng đầu tiên của con người và con vật trong hiện thực khách quan, tạo nên mối liên hệ trực tiếp giữa cơ thể và môi trường xung quanh. Lênin đã chỉ rõ “Cảm giác là mối liên hệ trực tiếp giữa ý thức và thế giới bên ngoài, là sự chuyển hóa của năng lượng kích thích bên ngoài thành hiện tượng ý thức”l. Tuy nhiên, đây là hình thức định hướng đơn giản nhất từ những mối liên hệ ban đầu của cơ thể với thế giới xung giác là nguồn cung cấp nguyên liệu cho các hình thức nhận thức cao hơn. “Cảm giác là viên gạch xây nên toàn bộ lâu đài nhận thức”. Lênin cho rằng “Tất cả hiểu biết đều bắt nguồn từ kinh nghiệm, từ cảm giác, tri giác”. “Nếu không có cảm giác thì chúng ta không thể biết gì hết về những hình thức của vật chất, cũng như về những hình thức của vận động.”Cảm giác là điều kiện quan trọng để đảm bảo trạng thái hoạt động trạng thái hoạt hóa của vỏ não, nhờ đó đảm bảo hoạt động thần kinh của con người được bình thường. Các nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực này cho thấy, trong trạng thái “đói cảm giác”, các chức năng tâm lí và sinh lí của con người sẽ bị rối giác là con đường nhận thức hiện thực khách quan đặc biệt quan trọng đối với những người bị khuyết tật. Những người câm, mù, điếc đã nhận ra những người thân và hàng loạt đồ vật nhờ cảm giác, đặc biệt là xúc Vai trò của tri giácVới tư cách là một mức độ nhận thức cảm tính cao hơn cảm giác, tri giác có vai trò quan trọng đối với con người, nó là thành phần chính của nhận thức cảm tính, nhất là ở người trưởng giác là một điều kiện quan trọng cho sự định hướng hành vi và hoạt động của con người trong môi trường xung quanh. Hình ảnh của tri giác thực hiện chức năng điều chỉnh các hành biệt, hình thức tri giác cao nhất, tích cực nhất, chủ động và có mục đích là quan sát, đã làm cho tri giác của con người khác xa tri giác của con vật. Cùng với sự phát triển và phức tạp dần lên của đời sống xã hội và của các thao tác lao động, quan sát trở thành một mặt tương đối độc lập của hoạt động và đã trở thành một phương pháp nghiên cứu quan trọng của khoa học cũng như của nhận thức thực Các quy luật cơ bản cảm giác và tri giácCũng như các hiện tượng tâm lí khác, cảm giác và tri giác ở con người diễn ra theo những quy luật nhất định. Việc hiểu biết và tính đến các quy luật này trong cuộc sống và trong công tác giáo dục là hữu ích và cần Các quy luật của cảm giáca. Quy luật ngưỡng cảm giácMuốn có cảm giác thì phải có sự kích thích vào các giác quan. Song không phải mọi kích thích vào giác quan đều gây ra cảm giác kích thích quá yếu không gây ra cảm giác, kích thích quá mạnh cũng dẫn đến mất cảm giác. Kích thích chỉ gây ra được cảm giác khi kích thích đó đạt tới một giới hạn nhất định Giới hạn mà ở đó kích thích gây ra được cảm giác gọi là ngưỡng cảm giác có hai ngưỡng ngưỡng cảm giác phía dưới và ngưỡng cảm giác phía cảm giác phía dưới là cường độ kích thích tối thiểu đủ để gây ra cảm giác. Khả năng cảm nhận được kích thích này gọi là độ nhạy cảm của cảm giác. Ngưỡng cảm giác phía trên là cường độ kích thích tối đa mà ở đó vẫn còn gây được cảm giác. Ví dụ, ngưỡng phía dưới của cảm giác nhìn thị giác ở người là những sóng ánh sáng có bước sóng là 380nm nanomet, lnm = Irm, ngưỡng cảm giác phía trên là vi giữa hai ngưỡng cảm giác nêu trên là vùng cảm giác được, trong đó có vùng cảm giác tốt nhất. Ví dụ, vùng phản ánh tốt nhất của cảm giác về ánh sáng là những sóng ánh sáng có bước sóng 565nm, của âm thanh là giác còn phản ánh sự khác nhau giữa các kích thích nhưng kích thích phải có một tỉ lệ chênh lệch tối thiểu về cường độ hay về tính chất thì ta mới cảm thấy có sự khác nhau giữa hai kích thích. Mức độ chênh lệch tối thiểu về cường độ hay tính chất của hai kích thích đủ để phân biệt sự khác nhau giữa chúng gọi là ngưỡng sai biệt. Ngưỡng sai biệt của mỗi cảm giác là một hàng số. Ví dụ đối với cảm giác thị giác là 1/100, thính giác là 1/10...Ngưỡng cảm giác phía dưới và ngưỡng sai biệt tỉ lệ nghịch với độ nhạy cảm của cảm giác và độ nhạy cảm sai biệt Ngưỡng cảm giác phía dưới càng thấp thì độ nhạy của cảm giác càng cao, ngưỡng sai biệt càng nhỏ thì độ nhạy cảm sai biệt càng cao. Những ngưỡng này khác nhau ở từng loại cảm giác và ở từng Quy luật thích ứng của cảm giácĐể phản ánh được tốt nhất và bảo vệ hệ thần kinh, cảm giác của con người có khả năng thích ứng với kích thích. Thích ứng là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của cảm giác cho phù hợp với cường độ kích thích Khi cường độ kích thích tăng thì giảm độ nhạy cảm, khi cường độ kích thích giảm thì tăng độ nhạy dụ Khi ta đang ở chỗ sáng cường độ kích thích của ánh sáng mạnh mà vào chỗ tối cường độ kích thích của ánh sáng yếu thì lúc đầu không nhìn thấy gì cả, sau một thời gian mới dần dần thấy được mọi thứ xung quanh thích ứng. Trong trường hợp này xảy ra hiện tượng tăng độ nhạy cảm của cảm luật thích ứng có ở mọi loại cảm giác, nhưng mức độ thích ứng không giống nhau. Có loại cảm giác thích ứng nhanh như cảm giác nhìn, cảm giác ngửi; nhưng cũng có loại cảm giác chậm thích ứng hơn như cảm giác nghe, cảm giác năng thích ứng của cảm giác có thể thay đổi và phát triển do rèn luyện và tính chất nghề nghiệp... công nhân luyện kim có thể chịu đựng được nhiệt độ cao tới 50 - 60oc trong hàng tiếng đồng hồ, thợ lặn có thể chịu được áp suất 2atm trong vài chục phút đến hàng giờ....c. Quy luật về sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các cảm giácCác cảm giác của con người không tồn tại một cách biệt lập, tách rời mà luôn tác động qua lại lẫn nhau. Trong sự tác động này, các cảm giác luôn luôn thay đổi độ nhạy cảm của nhau và diễn ra theo quy luật sau Sự kích thích yếu lên một cơ quan phân tích này sẽ làm tăng độ nhạy cảm của một cơ quan phân tích kia và ngược lại. Ví dụ, ta thường nói “Đói mờ cả mắt”.Sự tác động lẫn nhau của các cảm giác có thể diễn ra đồng thời hay nối tiếp trên những cảm giác cùng loại hay khác loại. Sự thay đổi của một kích thích cùng loại xảy ra trước đó hay đồng thời gọi là hiện tượng tương phản trong cảm giác. Có hai loại tương phản tương phản nối tiếp và tương phản đồng thời. Ví dụ Sau một kích thích lạnh thì một kích thích ấm lại làm ta thấy có vẻ nóng hơn. Đó là tương phản nối tiếp. Một người có làn da “bánh mật” mặc bộ đồ màu tối đen hoặc xám..., ta thấy họ càng đen hơn. Đó là tương phản đồng dạy học, sự tương phản được sử dụng khi so sánh hoặc khi muốn làm nổi bật một sự vật nào đó trước học sở sinh lí của quy luật này là mối liên hệ trên vỏ não của cơ quan phân tích và quy luật cảm ứng qua lại giữa hưng phấn và ức chế trên vỏ Các quy luật của tri giáca. Quy luật về tính đối tượng của tri giácHình ảnh trực quan mà tri giác đem lại bao giờ cũng thuộc về một sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài. Hình ảnh ấy một mặt phản ánh đặc điểm của đối tượng mà ta tri giác, mặt khác là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan. Nghĩa là con người khi tạo ra hình ảnh tri giác phải sử dụng một tổ hợp các hoạt động của các cơ quan phân tích, đồng thời chủ thể đem sự hiểu biết của mình về sự vật, hiện tượng dạng tri giác để “tách” các đặc điểm của sự vật, đưa chúng vào hình ảnh của sự vật, hiện tượng. Nhờ mang tính đối tượng mà hình ảnh tri giác là cơ sở định hướng và điều chỉnh hành vi, hoạt động của con Quy luật về tính lựa chọn của tri giácTrong tính lựa chọn chứa đựng tính tích cực của tri giác Tri giác là quá trình tách đối tượng ra khỏi bối cảnh. Vì vậy, những sự vật hay thuộc tính của sự vật nào càng được phân biệt với bối cảnh thì càng được tri giác dễ dàng, đầy đủ hơn. Sự lựa chọn trong tri giác không có tính chất cố định, vai trò của đối tượng và bối cảnh có thể giao hoán cho nhau. Có vô vàn sự vật, hiện tượng tác động vào con người. Tri giác của con người không thể đồng thời phản ánh tất cả các sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động, mà chí tách ra một số tác động trong vô vàn những tác động ấy để tri giác một đối tượng nào đó. Đặc điểm này nói lên tính lựa chọn của tri luật này được ứng dụng nhiều trong trang trí, bố cục, trong dạy học, thay đổi kiểu chữ, màu mực khi viết bảng, minh hoạ...c. Quy luật về tính ý nghĩa của tri giácCác hình ảnh của tri giác luôn luôn có một ý nghĩa nhất định. Khi tri giác một sự vật, hiện tượng, bằng kinh nghiệm và vốn hiểu biết của mình, con người gọi được tên sự vật, hiện tượng đó Nó là cái gì? và xếp nó vào một nhóm, một loại nhất định. Ngay cả khi tri giác một sự vật hiện tượng không quen biết, ta vẫn cố gắng ghi nhận trong đó một cái gì đó giống với các đối tượng mà ta đã quen biết hoặc xếp nó vào một loại sự vật hiện tượng đã biết, gần gũi nhất đối với quá trình tổ chức hoạt động học tập cho học sinh, giáo viên cần phải tính đến quy luật này. Tài liệu trực quan chỉ được quan sát một cách đầy đủ, sâu sắc khi giới thiệu những tài liệu đã được kèm theo những lời chỉ dẫn. Việc gọi tên đầy đủ, chính xác các sự vật, hiện tượng mới mẻ khi tổ chức cho học sinh quan sát là rất cần Quy luật về tính ổn định của tri giácĐiều kiện tri giác một sự vật, hiện tượng nào đó của chúng ta có thể thay đổi độ chiếu sáng, vị trí trong không gian, khoảng cách tới người tri giác..., song chúng ta vẫn tri giác được sự vật hiện tượng đó như là sự vật, hiện tượng ổn định về hình dáng, kích thước, màu sắc... Hiện tượng này nói lên tính ổn định của tri ổn định của tri giác là khả năng phản ánh sự vật, hiện tượng không thay đổi khi điều kiện tri giác thay đổi. Ví dụ Trước mặt ta là một em bé, xa hơn, phía sau em bé là một chàng thanh niên. Trên võng mạc, mặc dù hình ảnh em bé lớn hơn hình ảnh chàng thanh niên, nhưng ta vẫn cảm thấy chàng thanh niên lớn hơn đứa trẻ. Tương tự, khi ta viết lên trang giấy, ta luôn cảm thấy trang giấy có màu trắng, dù là ta viết dưới ánh điện, ánh trăng hay ánh đèn dầu, lúc trời tối nhá nhem...Tính ổn định của tri giác phụ thuộc vào nhiều yếu tố Trước hết là do cấu trúc của sự vật, hiện tượng tương đối ổn định trong một thời gian, thời điểm nhất định. Nhưng chủ yếu là do cơ chế tự điều chỉnh của hệ thần kinh cũng như vốn kinh nghiệm của con người về đối tượng. Tính ổn định của tri giác không phải là cái bẩm sinh, mà nó được hình thành trong đời sống cá thể, là điều kiện cần thiết của hoạt động thực tiễn của con người. Tuy nhiên, khi tri giác, cần khắc phục cái nhìn phiến diện, tĩnh tại về thế Quy luật tổng giácNgoài tính chất, đặc điểm của vật kích thích, tri giác của con người còn phụ thuộc vào bản thân chủ thể tri giác như nhu cầu, hứng thú, tình cảm, mục đích, động cơ... ví dụ “Yêu nhau củ ấu cũng tròn”.Sự phụ thuộc của tri giác vào nội dung đời sống tâm lí con người, vào đặc điểm nhân cách của họ được gọi là hiện tượng tổng giác. Điều đó chứng tỏ rằng ta có thể điều khiển được tri giác. Do vậy, trong quá trình dạy học và giáo dục, chúng ta phải tính đến kinh nghiệm, vốn hiểu biết, xu hướng, hứng thú, tâm lí của học sinh...; đồng thời việc cung cấp tri thức kinh nghiệm, giáo dục niềm tin, nhu cầu... cho họ sẽ làm cho sự tri giác của họ tinh tế, nhạy bén Ảo giácVí dụ Các vòng tròn như nhau nhưng nằm giữa các vòng tròn to hơn thì tri giác dường như bé hơn. Các trường hợp khác cũng có kết quả tương tự. Trong một số trường hợp, với những điều kiện thực tế xác định, tri giác có thể không cho ta hình ảnh đúng về sự vật. Hiện tượng này gọi là ảo giác là tri giác không đúng, bị sai lệch, tạo ra hình ảnh về đối tượng, hiện tượng không có thật. Những hiện tượng này tuy không nhiều, song nó có tính quy ta vận dụng ảo giác vào trong kiến trúc, hội họa, trang trí, trang phục... để phục vụ cho cuộc sống con lại, cảm giác và tri giác có nhiều quy luật, chúng quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau, góp phần làm phong phú nguyên liệu cảm tính cho các hoạt động nhận thức cao hơn tư duy, tưởng tượng. Trong quá trình dạy học và giáo dục, chúng ta cần vận dụng các quy luật cơ bản của cảm giác và tri giác một cách tích cực để nâng cao hiệu quả dạy học và giáo Tính nhạy cảm và năng lực quan sát là những thuộc tính của nhân cáchTính nhạy cảm là năng lực cảm giác nhạy bén, tinh vi, chính xác của con người. Tính nhạy cảm nâng lực cảm giác được phát triển ở mỗi người với những mức độ khác nhau. Điều này phụ thuộc vào những tư chất tự nhiên cấu tạo và chức năng của các giác quan, kiểu loại thần kinh..., vào hoạt động của con người, vào việc rèn luyện và giáo dục cũng như những phẩm chất của nhân cách xu hướng, nhu cầu, hứng thú, khả năng chú ý, vốn kinh nghiệm cá nhân...Thông qua hoạt động và rèn luyện, tính nhạy cảm của cảm giác được nâng lên. Chẳng hạn, người đầu bếp sành sỏi có thể phân biệt được độ mặn của thức ăn khi nêm thêm một chút ít muối, người nhạc công lão luyện có thể phân biệt được âm thanh theo độ cao...Năng lực cảm giác tính nhạy cảm là nhân tố chủ yếu của năng lực quan sát. Năng lực quan sát là khả năng tri giác có chủ định, diễn ra tương đối độc lập và lâu dài, nhằm phản ánh đầy đủ, rõ rệt các sự vật, hiện tượng và những biến đổi của chúng. Năng lực quan sát của mỗi người một khác. Sự khác biệt này được thể hiện ở mức độ tri giác nhanh chóng, chính xác những điểm quan trọng, chủ yếu và đặc sắc của sự vật, hiện tượng đến mức nào. Năng lực quan sát được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động và rèn quan sát tốt, cần chú ý những điều kiện sauXác định rõ mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, nhiệm vụ quan bị chu đáo cả về tri thức lẫn phương tiện trước khi quan hành quan sát có kế hoạch, có hệ quan sát, cần tích cực sử dụng các phương tiện ngôn với trẻ nhỏ, nên tạo điều kiện cho trẻ sử dụng nhiều giác quan khi quan ghi lại kết quả quan sát, xử lí kết quả đó và rút ra những nhận xét cần khác biệt cá nhân về năng lực quan sát nói lên sự khác biệt cá nhân về kiểu tri giác. Con người có bốn kiểu tri giác cơ bản Kiểu phân tích, kiểu tổng hợp, kiểu phân tích - tổng hợp và kiểu cảm thuộc kiểu phân tích chủ yếu tri giác những thuộc tính, những bộ phận, chi tiết cụ thể của đối thuộc kiểu tổng hợp thiên về tri giác những mối quan hệ giữa các thuộc tính, các bộ phận, chú trọng đến chức năng, ý nghĩa của nó mà coi nhẹ các thuộc tính, chi tiết cụ thuộc kiểu phân tích - tổng hợp giữ được sự cân đối giữa phân tích và tổng hợp khi tri thuộc kiểu cảm xúc chủ yếu phản ánh những xúc cảm, tâm trạng mà đối tượng gây ra cho mình, ít quan tâm đến bản thân đối công tác dạy học và giáo dục, giáo viên cần chú ý đến những điểm khác biệt trên đây, để hình thành cho mỗi học sinh năng lực quan sát tốt tôi đã giới thiệu nội dung bài Nhận thức cảm tính về khái niệm và đặc điểm, các thuộc tính cơ bản của nhận thức cảm tính..Trên đây, VnDoc đã giới thiệu tới các bạn Nhận thức cảm tính. Ngoài ra, các bạn có thể tham khảo thêm nhiều tài liệu Cao đẳng - Đại học cũng như Cao học khác để phục vụ quá trình nghiên cứu hiệu quả hơn.
Thừa nhận những vấn đề mình đang gặp phải là bước đầu tiên để hoàn thành tốt khía cạnh của cuộc sống. Tự nhận thức và khả năng xem xét nội tâm hay sự nội quan – introspection có vẻ là lời hứa cho đích đến cuối cùng của những người thầy self-help, nhưng đó chỉ là điểm khởi đầu trong quá trình phát triển bản thân mà thôi. Không thể tự phát triển nếu không biết tự nhận thức bản thân Tự nhận thức bản thân self-awareness, đôi khi cũng được gọi là self-knowledgehoặc nội quan – introspection là việc một cá nhân thấu hiểu được những nhu cầu, ước muốn, tình cảm, thói quen và tất cả những điều khác liên quan tới bản thân mình. Một người càng biết nhiều về chính mình thì sẽ càng dễ thích nghi với những thay đổi của cuộc sống và tìm cách đáp ứng những nhu cầu của mình. Tự nhận thức bản thân là một bộ phận quan trọng của liệu pháp trị liệu và triết học. Nó cũng là cơ sở của việc phát triển cá nhân, giả thiết này có nghĩa là một người nếu thu thập được nhiều thông tin về chính mình thì anh ta có thể phát triển mình dựa trên những thông tin đó. Tờ New York Times đưa ra nguồn gốc của việc này như sau Quan điểm của Socrate là “Hãy tự biết chính mình Know thyself”. Dù điều này khiến nhiều triết gia ngạc nhiên nhưng tự nhận thức về mình đòi hỏi không chỉ khả năng nhận thức, đánh giá trí tuệ mà cả tình cảm của chính mình. Theo kinh nghiệm của tôi tác giả bài viết trên NYT, không phải tất cả các triết gia đều nhận thức được cá nhân trên phương diện cảm xúc. Nhiều người có khuynh hướng coi những trạng thái lên xuống trong cảm xúc của mình như những vật cản của lý trí. Freud, hơn nhiều nhà thông thái ở Athens, đã nắm bắt được tầm quan trọng của việc nhìn thấu cảm xúc của con người emotional self-transparency. Cũng như những bi kịch Hy Lạp nhưng không cần phải có kiến thức về thơ ca, ông nhắc nhớ chúng ta rằng việc tìm được sợi dây liên kết với những cảm xúc phong phú của chính mình là không hề đơn giản. Về cơ bản thì, càng chú ý tới những cảm xúc của mình, bạn sẽ càng hiểu rõ vì sao mình cư xử như vậy trong mọi tình huống. Khi biết rõ hơn về những thói quen của mình thì bạn cũng sẽ dễ dàng cải thiện chúng. Trong hầu hết các trường hợp, điều này cần trải qua vài lần thử nghiệm. Một bài báo khác của tờ NYT nhắc tới vấn đề tự nhận thức bản thân và một phương pháp gọi là phương pháp vòng lặp kép double-loop learning. Trong phương pháp này, chúng ta sẽ đặt câu hỏi cho mọi khía cạnh của cách thức tiếp cận, bao gồm cả phương pháp luận, khuynh hướng thành kiến bias và những giả thiết đã được thiết lập vững chắc. Việc tự xem xét lại chính mình self-examination có chút khác biệt về mặt tâm lý này yêu cầu chúng ta phải trung thực, sẵn sàng nghi ngờ niềm tin của chính mình và can đảm hành động theo những thông tin có được. Điều đó có thể dẫn tới cách nghĩ hoàn toàn mới về cuộc sống và những mục tiêu của cuộc đời. Bạn có thể đọc mọi lời khuyên, áp dụng lịch trình hàng ngày của các thiên tài, nuốt từng lời của những trang viết self-help trên màn hình máy tính nhưng sẽ là vô ích nếu bạn không biết rõ mình để áp dụng chúng. Tự nhận thức bản thân không phải là liều thuốc thần thánh nhưng nó là bước quan trọng đầu tiên Rất dễ nhầm lẫn rằng việc hiểu rõ bản thân sẽ giúp bạn giải quyết tất cả các vấn đề, vì thực ra đó chỉ là bước đầu tiên. Tâm trí ta dễ bị tác động và nuôi dưỡng bởi các quan niệm thành kiến, từ đó khiến ta đưa ra quyết định. Trong cuốn sách Thinking, Fast and Slow, nhà nghiên cứu Daniel Kahneman chỉ ra rằng thậm chí sau nhiều năm nghiên cứu về thành kiến và khả năng ra quyết định của con người, ông vẫn mắc phải những lỗi đã từng mắc trước đó. Thêm vào đó ông cũng nói trong TED Talk rằng cách chúng ta nhớ về các sự kiện không phải luôn luôn chính xác. Ngay cả khi dành nhiều thời gian nhìn lại quá khứ, góc nhìn vẫn có những thay đổi. Một bài báo trên tạp chí Psychological Sience chỉ ra rằng có khá nhiều điểm mù mà ta không thể tự nhận thức được. Về cơ bản thì chúng ta chỉ có thể tạo dựng 1 hình ảnh cá nhân tới điểm mà ta không thể nhìn thấy những điểm yếu của mình. Cải thiện khả năng nhận thức bản thân với các bài tập Nhận thức chính mình không đơn giản và rất khó để loại bỏ mọi thành kiến nhận thức mà bạn có. Nhưng điều đó không có nghĩa là ta không thể cố gắng. Tuy không thể giải quyết mọi vấn đề nhưng ít nhất cũng sẽ tạo ra một số thay đổi khi bạn thực hiện các cách sau. Nhìn nhận bản thân khách quan hơn Học cách xem xét, đánh giá và có thể là chỉ trích những quyết định của chính mình. Tốt hơn nữa là nói chuyện và lắng nghe những phê bình từ người mà bạn tin tưởng. Viết ra mục tiêu manifesto Mục đích chính của tự nhận thức là tự phát triển bản thân. Vì thế việc viết ra 1 danh sách mục tiêu mình muốn đạt được sẽ là cách đẩy bản thân tới nơi bạn muốn. Viết nhật kí Như đã được nhà nghiên cứu Kahneman đề cập, trí nhớ chúng ta nhận thức quá khứ khá sâu. Nếu muốn có cái nhìn chính xác thì viết nhật kí là phương pháp khá hay. Nhật kí giúp bạn nhận thức những gì mình đang làm và từ đâu mà các vấn đề phát sinh. Dành thời gian viết ra ngay cả những chuyện nhỏ nhất như ăn uống, tắm rửa hay ngủ nghỉ sẽ giúp bạn chú ý tới xu hướng chung. Để có cái nhìn sâu hơn về kĩ năng ra quyết định, Harvard Business Review gợi ý cách viết ra những gì bạn nghĩ sẽ xảy ra trong tương lai và chờ khoảng 9, 10 tháng rồi đánh giá lại những gì mình đã viết. Đánh giá bản thân Đánh giá bản thân là việc làm khá gây bực mình ở công sở, nhưng bạn có thể tận dụng nó theo cách có ích. Thay vì dành thời gian nghĩ xem mình cần cải thiện điều gì thì những gì sếp và đồng nghiệp nghĩ về bạn sẽ giúp bạn nhìn mình từ góc độ của người khác, từ đó sẽ có thêm hiểu biết về chính mình. Post Views 281
NHẬN THỨC VÀ HỌC TẬPVận dụng về lý thuyết của cảm giácTrong dạy học cần lưu ý các quy luật về ngưỡng và sự thích ứng cảm giác để tăng cường hiệu quả nhận thức cho học sinhCường độ lời nói và tốc độ nói cần vừa phải, nằm trong vùng phản ánh tốt nhất của học sinhThể hiện nội dung qua bảng viết, hình ảnh và trình chiếu cần rõ ràng, đảm bảo khả năng phân dụng quy luật tri giác Sử dụng kết hợp nhiều phương thức hình ảnh như chữ viết bảng, dụng cụ trực quan, trình chiếu hình ảnh và video; sử dụng hợp lý về màu sắc, font chữ, kích thước và hình ảnh để tăng sinh động cho bài ra cần giúp đỡ học sinh rèn luyện khả năng quan dụng lý thuyết về tư duy Cần tạo ra các vấn đề và tình huống để kích thích tư duy của học sinhCần hướng dẫn, định hướng đúng cách cho học sinh, giúp học sinh nhận thức và giải quyết vấn đề theo trình tự các giai đoạn tư duyCần kích thích và rèn luyện cho học sinh các thao tác tư duy thông qua các vấn đề trong bài học Vận dụng lý thuyết về tưởng tượngXây dựng tình huống và câu hỏi kích thích trí tưởng tượng của học sinhHướng dẫn học sinh rèn luyện các chiến lược và kĩ năng tưởng tượngVận dụng lý thuyết về chú ýCần tìm cách đảm bảo và định hướng sự tập trung của học sinh vào hoạt động học tập. Phát huy các hình thức trình bày sinh động, hấp dẫn giúp chuyển hướng từ chú ý có chủ định sang chú ý sau chủ quan tâm đến những học sinh gặp khó khăn về chú ýVận dụng về sự khác biệt về nhận thức Lưu ý đến khả năng nhận thức, tư duy, tiếp cận thông tin từng học sinh để phân hóa việc dạy học phù hợp với khả năng mỗi cá nhân và mặt bằng chung của cả lớp
Bài 5 Lý luận nhận thức 4 tiết I. MỤC TIÊU - Về kiến thức Hiểu được phạm trù thực tiễn, lý luận; thực chất của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của triết học Mác-Lênin cũng như vai trò của việc quán triệt nguyên tắc này trong việc phát triển lý luận ở Việt Nam; - Về kỹ năng Từng bước biết vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn vào ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều trong học tập và hoạt động thực tiễn ở đội ngũ cán bộ; - Về trách nhiệm và thái độ Đứng vững trên lập trường nhận thức luận của triết học Mác-Lênin hiểu rõ bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều ở nước ta. II. NHỮNG NỘI DUNG CẦN NĂM VỮNG 1. Các nguyên tắc của lý luận nhận thức duy vật biện chứng 2. Nguồn gốc, bản chất của nhận thức 3. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức 4. Các giai đoạn cơ bản của quá trình nhận thức 5. Tính chất của chân lý III. CỤ THỂ NHƯ SAU 1. Các nguyên tắc của lý luận nhận thức duy vật biện chứng - Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan bên ngoài và độc lập với ý thức con người. Đây là nguyên tắc nền tảng của lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng. - Hai là, công nhận cảm giác, tri giác, ý thức nói chung là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, các cảm
LÝ LUẬN NHẬN THỨC1. Quan niệm về nhận thức trong LS Triết luận nhận thức có nguồn gốc Hy lạp cổ được ghép từ hai từ “Gnosis” là tri thức và“Logos” là lời nói, học luận nhận thức là một bộ phận của triết học, nghiên cứu bản chất của nhận thức, nhữnghình thức, các giai đoạn của nhân thức, con đường để đạt chân lý, tiêu chuẩn của chân lý...-Lý luận nhận thức là khía cạnh thứ 2 của vấn đề cơ bản của triết học. Lý luận nhận thức phảigiải quyết mối quan hệ của tri thức, của tư duy con người đối với hiện thực xung quanh, trảlời câu hỏi con người có thể nhận thức được thế giời hay không?* Các nguyên tắc xây dựng lí luận của CNDVBCThừa nhận sự vật khác quan tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức của conCảm giác , tri giác , ý thức nói chung là hình ảnh của thế giới khách quanThực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra hình ảnh đúng, hình ảnh sai của cảm giác, ý thứcnói chung2. Lí luận nhận thức của Nguồn gốc, bản chất của nhận thức* Nguồn gốc- Thế giới vật chất tồn tại khách quan là nguồn gốc duy nhất và cuối cùng của nhận thức. Giải thích cho nguồn gốc Triết học Mac – Lênin thừa nhận sự tồn tại khách quan củathế giới và cho rằng thế giới khách quan là đối tượng của nhận thức. Không phải ý thứccủa con người sản sinh ra thế giới mà thế giới vật chất tồn tại độc lập với con người, đó lànguồn gốc “duy nhất và cuối cùng” của nhận Triết học Mac – Lênin khẳng định Con người có khả năng nhận thức thế giới. Lênin chỉ rõ có những thứ mà con người chưa biết chứ không có cái gì không thế biết.* Bản chất- Nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hoạt độngtìm hiểu khách thể của chủ thể. Thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập đối với ý thứccủa con người tuy nhiên không có cái gì là không thể nhận thức được mà chỉ có cái conngười chưa nhận thức được mà Trong công xã nguyên thủy, con người ban đầu chỉ biết săn bắn hái lượm, về sau conngười bắt đầu nhận thức về vấn đề ăn chín uống sôi và tạo ra rửa, chế tạo công cụ laođộng- Nhận thức là một quá trình biện chứng có sự vận động và phát triển. Khẳng định sựphản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo. Quá trình phản ánhấy diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện tượng đếnbản chất.
bài học nhận thức