KTO,KTOĐăng ký,KTOnạp điện,KTOĐiểm chấp,KTOURLgiới thiệu. Kan_ Kanter Real Madrid _ Pacuch Real Madrid. Trung tâm dữ liệu của Liên đoàn bóng đá của các quốc gia khác nhau _ Cơ sở dữ liệu Liên đoàn bóng đá _ Trang web thống kê bóng đá. Bạn đang xem: Chân ái là gì? Ý nghĩa từ chân ái tại thpttranhungdao.edu.vn. Có phải bạn đang tìm kiếm chủ đề về => Chân ái là gì? Ý nghĩa từ chân ái phải ko? Nếu đúng tương tự thì mời bạn xem nó ngay tại đây. Xem thêm tri thức chơi game, review game khác tại đây => Hỏi đáp Vô Tri chính là Căn Bản Trí, Vô Tri chẳng có nghĩa là không có trí huệ, nếu thấy trong kinh nói Bát Nhã Vô Tri rồi cho rằng đó là hoàn toàn không có trí huệ thì bạn đã hiểu sai rồi. Vô Tri nghĩa là thật sự có trí huệ, trí huệ chẳng khởi tác dụng, là có ý nghĩa như vậy. Hắt xì hơi 1 cái: Theo ý nghĩa tâm linh, hắt xì hơi 1 lần được cho rằng là có ai đó nhắc đến bạn. Họ có thể là bạn bè, đồng nghiệp, người thân khi đang nói về một chủ đề nào đó liền nhắc đến bạn. Hắt xì hơi 2 cái: Hắt xì hơi 2 cái là điềm gì? Đây là 12VQ1. Lượt xem Tiên học lễ – Hậu học văn Về trường hợp nghiên cứu điển hình Việt Nam trong tư duy biện chứng pháp Hình 1 Ảnh minh họa Tiên học lễ – Hậu học văn Trong khi thế giới đang tiến vào thời kỳ duy vật, tất cả sự vật đều được định đoạt bằng các giá trị số hóa… Hình 2 Cặp Samsonite Việt Nam đã tiến vào Năm châu – Năm bể không theo cách xách tay chiếc cặp Samsonite ngày vừa qua hình 2, hay đeo vai xâu tiền ngày trước hình 3 – mà lại là một phong thái ẩn dấu một chuỗi cung cứng năm giá trị tình tự Nhân – Lễ – Nghĩa – Trí – Tín. Có gì phải hỗ thẹn khi năm giá trị ứng xử trong xã hội lòai người đã kết tụ được cả ba dòng tư tưởng Tam giáo đồng nguyên như chiếc vạc đồng xây dựng nên bộ quy tắc ba chân Nho – Phật – Đạo của phương Đông. Đến thời cận hiện đại – Việt Nam mở cánh cừa tư duy để gọi thêm dòng tôn giáo mới từ phương Tây đến mà đúc nên đỉnh đồng bốn chân để tạo hình Tứ Giáo Đồng Trụ Nho – Phật – Đạo – Kitô. Tất cả đã đứng vững trên nền tảng văn hóa Việt Nam để trở thành một trường hợp nghiên cứu điển hình trong hệ tư tưởng nhân loại như một hình mẫu Tứ Đại Đồng Đường được soi rọi qua chiếc gương thiên văn số hóa vạn vật trong Năm châu – Năm bể. Nếu cuộc bút chiến thứ nhất 32 – 45 đã làm rõ bản thể nghệ thuật vị nhân sinh, hay nghệ thuật vị nghệ thuật, lấy phong trào thơ mới để đắp lên cơ thể văn thơ trong Tàng thư các – thì cuộc bút chiến thứ hai này lại nổ ra văn đàn nhằm làm rơi rụng hay ít ra cũng làm rung lắc mặt trước của bảng hiệu Tiên học lễ –Hậu học văn. Nếu trước đây dùng ngòi bút để chiến đấu trong Thế giới nhật trình để phục vụ công chúng văn học chữ La-tinh – thì cuộc chiến đấu lần này qua thuật đám mây để phục vụ công chúng số hóa vạn sự Internet of things. Chúng tôi đang có mặt trong thế giới số hóa đó. Nếu các cuộc thế chiến thay vì đổ máu – cuộc bút chiến đã đổ mực. Hình 3 Vác tiền Ký họa của Henri Oger – Kỹ thuật người An Nam1908 – 1909 tại Hà Nội. trích trong Luận án tiến sĩ Sử họccủa nhà nghiên cứu Nguyễn Mạnh Hùng xx x Mở đầu cuộc chiến tại Ủy ban Văn hóa giáo dục của Quốc hội– tổ chức ngày 21/11 Giáo sư Tiến sĩ Khoa học Trần Ngọc Thêm hình 4 đã có mặt Giáo sư Tiến sĩ Khoa học Trần Ngọc Thêm Hình 4 Giáo sư Tiến sĩ Khoa học Trần Ngọc Thêm – Ảnh KT – Theo Giáo sư – để cho xã hội phát triển – thì điều quan trọng là cần phải có con người sáng tạo – mà để có được con người sáng tạo thì trước hết phải có con người chủ động. Để có con người chủ động cần phải loại trừ 1. Tính thụ động ở người dưới – Theo giáo sư đó là học trò, con cái. 2. Tính áp đặt ở người trên – Đó là thầy cô, cha mẹ. – Theo giáo sư Cần bắt đầu từ việc thay đổi quan niệm là không sử dụng những cách biểu đạt mang tính thụ động như Con ngoan trò giỏi. – Theo giáo sư Ngoan – theo nghĩa “dễ bảo” – Vâng lời theo nghĩa “thuộc bài”. – Giáo sư đưa một bộ quy tắc ứng xử được số hóa Ba cần, Hai nhằm, Ba chống. Ba cần gồm có 1. Cần thực hiện dân chủ trong giáo dục. 2. Cần thay đổi quan niệm về sự sáng tạo của mình. 3. Cần chấm dứt sử dụng khẩu hiệu Tiên học lễ – Hậu học văn hình 5. Hình 5 Khẩu hiệu “Tiên học lễ – Hậu học văn” – Ảnh minh họa. Hai nhằm gồm có 1. Nhằm khai mở tư duy phản biện. 2. Nhằm giải phóng sức sáng tạo. – Để được thênh thang trên con đường giáo dục. Giáo sư đề ra “ba cách chống” – trong đó có hai chống triệt để 1. Chống việc nhồi nhét kiến thức. 2. Chống việc học thuộc lòng. – Giáo sư còn bổ sung hai thay đổi. Đó là 1. Thay đổi quan niệm về cách biên soạn sách giáo khoa. 2. Thay đổi cách ra đề thi kèm theo đàn áp. – Ngoài ra, giáo sư còn đề xuất mạnh mẽ hơn nữa – Đó là phải dứt điểm cách học bài mẫu. – Cuối cùng, giáo sư đi đến kết luận Ba không + Một là không đề cao chữ lễ để ràng buộc người học. + Hai là không đề cao quá mức vai trò của người Thầy, của đáp án, + Ba là không bóp nghẹt tư duy phản biện để làm đứt gãy công cuộc xây dựng tiến bộ xã hội – để tư duy phản biện được rộng đường để xã hội được phát triển. Ngay lập tức – sấm ngôn của giáo sư Trần Ngọc Thêm đã có làm rung lắc dòng tư duy truyền thống qua một số ý kiến trái nghịch nhau – chấp nhận cũng như từ chối 1. PGSTS Lê Quý Đức hình 6 – Nguyên Phó Viện trưởng Viện Văn hóa và Phát triển Học viện Chính trị quốc gia – bày tỏ ý kiến với VOVVN qua bài tham luận của Giáo sư Trần Ngọc Thêm. Hình 6 PGSTS Lê Quý Đức Đồng tình với quan điểm của Giáo sư Trần Ngọc Thêm qua cảm nhận từ ba hoàn cảnh xã hội 1. Bước vào thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 2. Thúc đẩy phát triển đất nước bằng trí thức. 3. Cần giáo dục con người có óc sáng tạo, có tư duy sáng tạo, phản biện. Ông phủ định Tư duy truyền thống xưa kia từng bảo hộ tinh thần, cấu kết cộng đồng. Ông đề cao 1. Thái độ ứng xử hiện đại. 2. Tự khẳng định giá trị và lợi ích bản thân mà không vì chủ nghĩa ích kỷ, vị kỷ. 3. Sáng tạo cá nhân. PGSTS Lê Quý Đức vừa ủng hộ vừa bổ sung sự cần thiết cần có hai phải 1. Phải đưa ra triết lý giáo dục mới. 2. Phải để cá nhân tự khẳng định vai trò của mình mới có thể tự do, dân chủ. PGSTS Lê Quý Đức không đồng tình mà đút kết thành ba đừng 1. Đừng khuôn chữ Lễ vào phạm vi hẹp. 2. Đừng hiểu Lễ theo cách hiểu truyền thống. 3. Đừng phê phán chữ Lễ – theo ba khuôn đúc nên hình mẫu Trò nghe lời Thầy – trò chịu sự áp đặt của Thầy – trò chịu khuất phục trườc quyền lực của Thầy. Cuối cùng, theo PGSTS Lê Quý Đức kết luận – Nếu bỏ chữ Lễ – tức là xóa bỏ chức năng trồng người của văn hóa. – Cần giữ lại Tiên học lễ – Hậu học văn. – Lễ và Văn – hài hòa trong văn hóa giáo dục. Theo Nguyễn Trang/ 2. Ý kiến GSTS Vũ Minh Giang hình 7 – Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Đại học Quốc gia Hà Nội. Theo Giáo sư – Giáo dục có hai yêu cầu cơ bản Hình 7 GSTS Vũ Minh Giang Một là dạy cho người học thành người “bốn có” 1. Có nhân cách, đạo đức, ứng xử – 2. Có tri thức – 3. Có kiến thức – 4. Có học vấn. GSTS Vũ Minh Giang góp thêm dòng tư tưởng hồi niệm Sau đổi mới – từ năm 1986 “Tiên học lễ – Hậu học văn” hình 8 đã đưa ra khẩu hiệu dẫn vào trường học. Hình 8 Khẩu hiệu “Tiên học lễ – Hậu học văn” – Ảnh Phan Châu Trưởng Giáo sư dẫn chứng giáo dục nguồn tư liệu từ bên ngoài – Đài Loan cho học trò đeo Logo trên ngực 6 chữ Hán được giáo sư phiên âm bằng quốc ngữ – mà Viện nghiên cứu Việt Nam học xin phép được “đính thêm” chữ Hán để độc giả nhận được mặt chữ Lễ 禮; Tiêu 標 ; Lạc 樂; Ngự 禦 ; Tri 知;Thức 識 Theo Thùy Linh/ 3. Theo GSTS Nguyễn Minh Thuyết hình 9 – tổng chủ biên chương trình giáo dục phổ thông 2018. Theo giáo sư “Tiên học lễ – Hậu học văn” bao hàm phạm trù đạo đức con người. Trước hết là phải học đạo đức làm người – do con người lấy đức làm gốc. Vì thế, khẩu hiệu “Tiên học lễ – Hậu học văn” vẫn còn phù hợp. Hình 9 GSTS Nguyễn Minh Thuyết 4. Theo GSTS Phạm Tất Dong hình 10 – phó chủ tịch thường trực hội khuyến học Việt Nam – đề nghị ngành giáo dục Việt Nam nên xem xét lại vì khẩu hiệu “Tiên học lễ – Hậu học văn” không còn phù hợp với giáo dục hiện đại. Theo ông, hiện nay phát triển giáo dục mới cần có nhiều triết lý mới. Hình 10 GSTS Phạm Tất Dong 5. PGSTS Trần Xuân Nhĩ hình 11 – nguyên thứ trưởng bộ giáo dục và đào tạo – không đồng tình với GS Trần Ngọc Thêm. Theo giáo sư Đức là gốc cơ bản. Do đó, Lễ được hiểu là đức hạnh. Theo giáo sư – một bộ phận học thuật cho rằng “Lễ là bề trên nói, bề dưới răm rắp nghe theo” – như vậy là chưa đúng… Với bất kỳ thời đại nào “Tiên học lễ – Hậu học văn” đều hoàn toàn đúng. Hình 11 PGSTS Trần Xuân Nhĩ 4. Theo Tiến sĩ Phạm Văn Khanh – NGƯT – phó chủ tịch hội khoa học tâm lý giáo dục Việt Nam – chủ tịch hội khoa học tâm lý giáo dục Tiền Giang; “ Quan niệm giáo dục nước ta đã được hình thành và phát triển mạnh mẽ, ảnh hưởng của nó trong thời kỳ phong kiến với nền giáo dục Nho học ở nước ta. Theo Tiến sĩ “Tiên học lễ – Hậu học văn” tiếp tục được duy trì trong nền giáo dục tân học, nền giáo dục theo mô hình phương Tây và lấy chữ quốc ngữ làm chữ viết chính thức. ảnh hưởng của quan niệm này đã suy yếu dần trong những thập niên gần cuối thế kỷ 20. xx x A. Những ý kiến của giới trẻ 1. Lê Trang Anh hình 12 – Sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Hình 12 Sinh viên Lê Trang Anh. “Trước hết, tôi nghĩ ai cũng có quyền được bày tỏ quan điểm cá nhân, và Ngọc Thêm cũng vậy. Là một người làm nghiên cứu chuyên sâu, Giáo sư đã có những lập luận không hẳn không có cơ sở để đưa ra kiến nghị đó. Tuy nhiên, từ quan điểm cá nhân áp dụng vào thực tế là một câu chuyện dài, đòi hỏi sự xem xét kỹ lưỡng và lấy ý kiến của nhiều cơ quan, tổ chức. Do đó, tôi nghĩ mọi người không nên quá khích hay có những lời lẽ công kích đối với Giáo sư và với đề xuất. Còn quan điểm của tôi, mặc dù tôi tôn trọng ý kiến của GS. Trần Ngọc Thêm, nhưng tôi không đồng tình với việc bỏ khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” trong môi trường học đường lúc này”… 2. Chu Quang Bằng hình 13, đang theo học Thạc sĩ ngành Quan hệ Quốc tế tại Trường Đại học Tổng hợp Liên bang Ural Liên bang Nga cho rằng, thay vì xóa bỏ khẩu hiệu, thì nên đề xuất thêm những khẩu hiệu mới nhằm tạo sự phát triển toàn diện của học sinh, sinh viên. Hình 13 Sinh viên Chu Quang Bằng. “Tôi cũng theo dõi những tranh luận xoay quanh thông tin về kiến nghị bỏ khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” của GS. Trần Ngọc Thêm. Trước khi là một du học sinh, tôi là một sinh viên trường Sư phạm trong nước, tôi thấy quan điểm của Giáo sư đưa ra chưa được hợp lý. “Tiên học lễ, hậu học văn” từ lâu đã trở thành văn hoá không thể thiếu của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là trong việc giáo dục con người. Khẩu hiệu như kim chỉ nam giúp định hướng sự phát triển toàn diện về nhân cách, đạo đức và lối sống. Học lễ nghĩa và văn hóa luôn đi liền với nhau, và là yếu tố không thể thiếu trong hành trình làm người…”. 3. Vũ Châu Giang Hình 14 Sinh viên Vũ Châu Giang. hình 14, Sinh viên theo học bộ môn Văn hóa và Ngôn ngữ Ả Rập của Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ủng hộ mục tiêu cần phát triển tư duy phản biện và sức sáng tạo của học sinh, sinh viên. Tuy nhiên, bỏ khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” để thực hiện điều này thì với Giang là chưa hợp lý “Đầu tiên, tôi thấy kiến nghị của Giáo sư cũng là một ý tưởng mới, táo bạo và có nhiều khía cạnh đúng đắn. Song, tôi nghĩ rằng chữ “lễ” trong “Tiên học lễ” không chỉ mang nghĩa của sự thụ động “dễ bảo, vâng lời”, mà “lễ” theo tôi hiểu bao hàm cả nền tảng đạo đức và văn hóa….”. 4. Vũ Hữu Hồng Quân hình 15 – Sinh viên ngành Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội Hình 15 SV. Vũ Hữu Hồng Quân. Bởi “Tiên học lễ, hậu học văn” là một truyền thống từ xưa đến nay của dân tộc ta. Trước khi học kiến thức thì bản thân mỗi chúng ta cần phải học cách làm người, biết cách cư xử sao cho đúng mực. Nói bỏ “lễ” để để khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo là không hợp lý. Vì từ xưa đến nay, tuy chúng ta đề cao vai trò của người “thầy” Không thầy đố mày làm nên nhưng cũng ko tuyệt đối hóa vai trò của việc “học thầy” mà có câu nói “Học thầy không tày học bạn”… Theo Trang Anh /PLVN xx x B. Theo ý kiến đóng góp của độc giả 1. Độc giả Nhanphan100792 nêu quan điểm “Tiên học lễ hậu học văn’ là một câu nói nhằm nhắc nhở con người rằng, đạo đức là ưu tiên hàng đầu. Phản biện là điều cần thiết. Một con người có lễ nghĩa sẽ luôn kính trên, nhường dưới, luôn mong cho thế hệ sau giỏi hơn thế hệ trước, nhưng không bao giờ được quên công ơn của người đi trước, như câu Ăn quả nhớ kẻ trồng cây’… 2. Độc giả Quang Pham nhấn mạnh “Tôi không hiểu sao lại đề xuất bỏ khẩu hiệu này? Tiên học lễ, hậu học văn’ ở đây không thể hiểu gói gọn trong lễ nghĩa hay văn chương. Bản chất của nó là học làm người trước khi học làm nghề, học nhân cách trước khi học kiếm sống, học đạo trước khi học tri thức…” 3. Thạc sĩ Phan Thế Hoài – giáo viên Ngữ văn tại TP HCM – cho rằng nên hiểu chữ “Lễ” theo quan điểm hiện đại. Theo ông, Nho giáo và chữ Lễ không “trói buộc con người” như GS Trần Ngọc Thêm nêu quan điểm. Chữ “Lễ” cũng không phải là nguyên nhân sinh ra bệnh thành tích, trói buộc tư duy người học, người dạy như một số người khẳng định…” 4. Độc giả Hoai anh cho rằng Giữ “Lễ’ không có nghĩa là yếu đuối, thụ động. Người biết giữ Lễ’ là người có bản lĩnh, tự trọng và biết giá trị của mình. Tôi thấy các bạn sinh viên hoặc ứng viên trên sân khấu, truyền hình… thường nhầm lẫn khi thể hiện sự tự tin. Ở đây, tự tin không phải là xưng tôi’ với người lớn, không phải là nói lớn tiếng, hô hào. Tự tin đến từ người biết giữ Lễ’, chững chạc, ăn nói rõ ràng, thuyết phục. Người biết giữ “Lễ” trong mọi tình huống là người có sức mạnh nội tâm và kiên cường”. “Tiên học lễ hậu học văn là đúng trong mọi trường hợp. Học lễ ở đây là lễ nghĩa con người nói chuyện và đối đãi với nhau trước khi nói hoặc viết những lời hoa mỹ, văn chương…” Học lễ chính là học cách nói chuyện, cách đối nhân xử thế”. Độc giả Nhân Trần bổ sung. Tuy nhiên, độc giả Tuấn Nguyễn ủng hộ ý kiến Giáo sư Trần Ngọc Thêm – bỏ “Tiên học lễ, hậu học văn” vì chỉ mang tính khẩu hiệu, không thực tế “Phong cách giáo dục rất quan trọng, giáo dục bằng lời nói, bằng hành động cụ thể. Hiện nay, hình ảnh của người thầy, người cô đa phần đều khiến học sinh sợ hơn cha mẹ. Vậy nên, chúng ta cần bỏ bớt khẩu hiệu. Tôi thấy khắp nơi đều có khẩu hiệu, vừa tốn tiền của trong khi nhiều người còn không thèm đọc, không để ý tới…”. Muốn khuyến khích học sinh phản biện, không cần bỏ khẩu hiệu “Tiên học lễ hậu học văn” ra khỏi trường học mà người thầy phải sử dụng nhiều phương pháp khác nhau. Đó là nhận định của độc giả PhongNg “Tôi nghĩ không nên bỏ khẩu hiệu này Nhưng nền giáo dục nói chung và các thầy cô nói riêng nên có một cái nhìn đúng đắn, chính xác hơn về lễ nghĩa, đạo đức của học sinh…” Theo Việt Thành / xx x C. Những ý kiến độc giả 1. Độc giả Phạm Tuệ Nhi Đừng phủ nhận hoàn toàn những giá trị cốt lõi tốt đẹp! “Tiên học lễ, hậu học văn”, theo cách hiểu của tôi, chính là quan điểm giáo dục truyền thống, xem trọng việc bồi dưỡng đạo đức, góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp cho người học. Dù chịu ảnh hưởng từ Nho giáo nhưng “Tiên học lễ, hậu học văn” không hề cũ mà ngược lại vô cùng cần thiết trong xã hội hiện tại… Cái “lễ” tuỳ thuộc vào hoàn cảnh xã hội và đặc trưng văn hóa của từng quốc gia mà có những quy tắc riêng nhưng nhìn chung đều là gốc rễ và cội nguồn của giáo dục toàn cầu. Khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” không hề gây cản trở đến sự phát triển của tư duy phản biện, khai mở sự sáng tạo mà ngược lại còn góp phần hỗ trợ và nâng đỡ về tinh thần, giúp học sinh vững vàng hơn trong quá trình tiếp thu tri thức… 2. Độc giả Phạm Văn Chung Khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” không chỉ là quan điểm lễ nghĩa Nho giáo mà đã được bổ sung các giá trị tiến bộ của thời đại, phù hợp với từng bậc học, cấp học… Lễ nghĩa ở đây cần phải hiểu đó chính là đạo đức. Đối với con người, đạo đức là gốc, là nền tảng. Vì vậy, không nên bỏ sử dụng khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” mà nên phát triển, bổ sung, sáng tạo tùy thuộc vào ngành học, cấp học cho phù hợp… 3. Độc giả Mai Nhung Hãy nâng niu và lan tỏa câu khẩu hiệu “ Tiên học lễ, hậu học văn”!… 4. Độc giả Lê Đức Đồng Chữ “Lễ” có tầm rất quan trọng. Gần 40 năm dạy học, làm công tác quản lý, tôi vô cùng ngạc nhiên về quan điểm “Cần chấm dứt sử dụng khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” để khai mở tư duy phản biện, sáng tạo”. Theo tôi, đừng đổ lỗi cho câu khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” tạo ra những con người thụ động, ít tư duy phản biện, bởi thực tế do nhiều nguyên nhân khác như chương trình học, phương pháp dạy học, bệnh thành tích… Thực tế, biết bao câu chuyện về chữ “Lễ”, về tinh thần “tôn sư trọng đạo” gây cho người đọc nhiều cảm xúc, suy nghĩ… Chuyện kể rằng ông Francois Sadi Carnot, nguyên Tổng thống nước Pháp, nhân một lần về thăm quê nhà, khi đi ngang qua trường làng, trông thấy người thầy dạy mình lúc bé vẫn còn đứng lớp, đã đến trước mặt thầy giáo cũ, lễ phép “Chào thầy, con là Carnot, thầy còn nhớ con không?”. Rồi ông nói với những học trò nhỏ “Tôi trước là mang ơn cha mẹ, sau ơn thầy đây. Nhờ thầy chịu khó dạy bảo, tôi mới làm nên sự nghiệp ngày nay“. Chữ “lễ” có tầm rất quan trọng, tạo nên nhân cách con người. Xin đừng nhân danh phản biện, nhân danh này khác mà đòi bỏ câu khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn”. Theo Huỳnh Hiếu /NLD xx x C. Ý kiến của phụ huynh Chị Trần Thị Hồng phụ huynh ở Can Lộc – Hà Tĩnh “đồng ý phải đề cao tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo, nhưng không tán thành việc xóa bỏ khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn”. Theo chị, hai yếu tố này không mâu thuẫn, không nhất thiết chọn cái này thì phải bỏ cái kia, chúng phải bổ khuyết cho nhau, tạo nên nền tảng để con người tiến tới sự hoàn thiện. “Lẽ nào học trò không chào thầy cô, không học lễ nghĩa mới là đổi mới, sáng tạo hay sao?” Theo Hà Cường/ Một số ý phát biểu thêm của cộng đồng xã hội còn được gi nhận trên diễn đàn thông tin điện tử qua mạng xã hội 1. Phạm Tuệ Nhi quận 11, Phần lễ, đạo đức càng cần thiết trong xã hội hiện đại. 2. Nghiên cứu sinh Phan Văn Hồng Thắng Không rèn phần “lễ” thì khác gì tạo ra robot 3. Tiêu Nhi Thừa Thiên Huế Đầu tiên cần phải học lễ nghĩa Tuổi trẻ online. Viện nghiên cứu Việt Nam học xin phép được sơ kếtnguồn thông tin số hóa như trên để phục vụ công chúng./. xx x Ban Tu thư Thánh địa Việt Nam học đang tiếp tục cập nhật Phần 2. Quý độc giả đóng góp ý kiến cho bài viết “Tấm bảng vàng bia đá – trong cơn rung lắc; Tiên học lễ – Hậu học văn“, xin gửi về Ban Tu thư theo địa chỉ email bantuthu1965 để góp phần xây dựng Website Thánh địa Việt Nam học ngày càng phong phú. xx x Trong lúc Quý độc giả chờ đợi bài viết “Tiên học lễ – Hậu học văn” – phần tiếp theo,Ban Tu thư xin trích giới thiệu trong Bốn bộ sách Tết, bài viết sau XIN TRI ÂN Quý Ân nhân ẩn danh đã tài trợ cho tôiđược ấn hành Bộ sách Tết nhũ vàng này ———– Xin cảm ân Quý Ân nhân, Quý Cô Chú, Quý Bạn Bè Anh Em trong nước, ngoài nước – đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình từ sau ngày Ba mươi Tháng tư Năm bảy mươi lăm. Từ đó, tôi được học tập, nâng cao nhận thức theo tư duy duy vật biện chứng pháp để có được chỗ đứng trong xã hội. Ngày ấy, từ vai trò một “giáo viên cơ nhỡ”, tôi đã thành một thầy giáo chính thức của Đại học – được phép góp phần kiến tạo nên Hệ Đại học không chính quy – tiền thân của Hệ Đại học Dân lập, Tư thục, Quốc tế ngày nay từ những năm 1984–1985. Sau này, tôi được làm Hiệu trưởng một trường Đại học kể từ ngày xin sáng lập vào năm 1992 đến ngày được phép hoạt động chính thức – năm 1997 – Và được làm Hiệu trưởng suốt 18 năm từ 1997 – 2015. Quý Ân nhân đã giúp tôi trở lại với vai trò hoạt động văn hóa giáo dục – mà cho tôi được làm Viện trưởng Viện nghiên cứu Việt Nam học. Quý Bạn bè Anh em đã giúp đỡ tư liệu và chỉnh sửa văn pháp, ngữ pháp của tôi cho phù hợp với văn phong, phong cách Việt Nam học truyền thống và hiện đại. Xin góp ý sửa chữa để Bộ Sách ngày càng hoàn thiện hơn. Xin tri ân! Xin đội ân Quý Lãnh đạo, Quý Phụ huynh, Quý Thầy Cô, Quý Anh Chị Em làm việc, phục vụ, cùng nhiều thế hệ sinh viên tại Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng trong suốt thời gian tôi chịu trách nhiệm. Cuối cùng, xin khoanh tay cúi đầu chào nhiều thế hệ sinh viên Đại học Quốc tế Hồng Bàng – để xin tha lỗi cho tôi chưa làm tròn trách nhiệm một Hiệu trưởng trên con đường dẫn dắt các em, các cháu đến một nước Việt Nam tương lai đầy triển vọng trên bước đường vào thời kỳ Duy vật để chào đón thời kỳ Hậu Duy vật. Xin tha lỗi cho tôi vì tôi không đủ sức đi hết đi hết con đường giáo dục cho đến cuối đời. Tôi may mắn được đi tiếp trên con đường Việt Nam học với ơn trợ giúp của Thánh thần và Quý Ân nhân. Kính Viện trưởng Nguyễn Mạnh Hùng Phó Giáo sư Tiến sĩ Sử học Thánh Địa Việt Nam Học Kính mời Quý độc giả xem tiếp PHẦN 2 Bảng vàng bia đá “Tiên học lễ – Hậu học văn” như đang đứng trước vành móng ngựa Qua cuộc trò chuyện cuối năm PHẦN 3 Cuộc trò chuyện tiếp – Lần 2 Ít người biết đá làm bia Tiến sĩ được vận chuyển từ đâu và con rùa mang ý nghĩa gì? Du khách trong và ngoài nước mỗi khi đến thăm Văn Miếu – Quốc Tử Giám phố Quốc Tử Giám, quận Đống Đa, TP Hà Nội đều trầm trồ ngắm nhìn những tấm bia Tiến sĩ, gắn với con rùa bằng đá. Tại sao bia đá lại được đặt trên lưng rùa? Trong khuôn viên của di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám có một khu vườn từ Khuê Văn Các đến cửa Đại Thành, gọi là vườn bia đá Tiến sĩ. Sát bờ hồ Thiên Quang Tỉnh là lối đi và những dãy bia đá trang nghiêm, cổ kính dựng thành hai khu Đông và Tây. Mỗi khu chứa hai dãy bia đá, tất cả gồm 82 tấm bia ghi tên họ quê quán của những người đã đỗ Tiến sĩ triều Lê. Chú rùa cõng trên mình tấm bia Tiến sĩ, nó đã trở thành biểu tượng của Văn Miếu – Quốc Tử Giám. GS Phan Huy Lê cho biết Hình ảnh con rùa vốn rất gần gũi trong đời sống người Việt Nam. Trong các bàn thờ thờ Thành hoàng làng hình ảnh con rùa và con hạc thường uy nghi đứng hai bên như một vật biểu linh cho tinh thần, sức mạnh của dân tộc. Có lẽ vì thế vua quan thời Lê cũng đã lấy hình tượng con rùa để gắn liền với bia Tiến sĩ. Cổng chính Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Cũng theo GS Phan Huy Lê, trong quan niệm của người Á Đông, rùa được xem là biểu tượng của vũ trụ. Mai rùa tượng trưng cho bầu trời, còn bụng rùa tượng trưng cho mặt đất. Ở nước ta, con rùa có vị trí rất đặc biệt từ thời An Dương Vương xây thành ốc Cổ Loa tại Đông Anh, Hà Nội. Xưa kia, An Dương Vương cho quân lính xây thành nhiều lần, nhưng cứ xây xong thành lại bị đổ mà không biết nguyên do gì. Sau này thần rùa Kim Quy xuất hiện đã giúp cho An Dương Vương xây dựng thành công thành Cổ Loa. Sau này rùa thần trao cho An Dương Vương một chiếc nỏ thần có thể bắn một lần trăm phát, đánh trăm trận trăm thắng. Theo truyền thuyết kể về Lê Lợi sau khi đánh thắng giặc Minh nhờ thanh kiếm thần, một hôm đi dạo thuyền chơi trên hồ Tả Vọng, Long vương đã cho rùa thần lên đòi lại kiếm. Từ đó hồ Tả Vọng có tên là hồ Hoàn Kiếm. Như vậy, việc đặt bia Tiến sĩ trên lưng rùa không chỉ thể hiện cho sự trường tồn bất diệt của thời gian mà nó còn có ý nghĩa linh thiêng. Rùa đá đội bia Tiến sĩ bị du khách sờ nhẵn đầu. Đá làm bia được lấy từ Thanh Hóa Nhà nghiên cứu Ngô Đức Thọ cho biết, việc chạm khắc bia Tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám được thực hiện rất công phu, có giá trị lớn về nghệ thuật điêu khắc. Công việc thường do các quan Thượng thư, Tham tri bộ Lễ đích thân trông nom. Việc chọn đá, tuyển thợ khắc do bộ Công đảm nhiệm. Loại đá thanh đá vôi mịn có kết cấu vững chắc, có sức chịu đựng phong hóa, dùng tạc bia chủ yếu được lấy từ núi đá làng An Hoạch, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Đá ở núi đá này nổi tiếng từ lâu đời đã được dùng vào các công trình điêu khắc bia, khánh tượng đời Lý. Người đương thời đã từng ca ngợi “Ở phía Tây Nam của huyện Đông Sơn có một quả núi lớn và cao gọi là núi An Hoạch, sẵn nhiều đá đẹp là tài sản quý giá của nhà nước. Loại đá này óng ánh như thạch lam, chất biếc xanh như khói nhạt. Sau này người ta tạc đá ấy làm khí cụ như tạc thành khánh đá, đánh lên tiếng ngân muôn dặm; hoặc dùng làm bia để lại muôn đời” Chu Văn Thường – An Hoạch sơn Báo ân tự bi ký. Du khách nước ngoài rất quan tâm tới bia đá ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám Có giả thiết rằng, từ núi đá An Hoạch vua quan nhà Lê đã cho lính dùng ngựa để vận chuyển đá ra bờ sông Mã đóng thuyền chở về Thăng Long. Từ bờ sông Mã, quân lính sẽ ngược về sông Hồng, chuyển đá về Văn Miếu để dựng bia. Đăng bởi Đinh Trần Quốc ViệtTừ khoá Bia đá Tiến sĩ ở Văn Miếu, những điều chưa biết Hiện tại chắc hẳn bạn sẽ thấy từ “vô tri” xuất hiện khá thường xuyên. Vậy vô tri là gì? Nhiều người thích sử dụng cụm từ này nhưng có thể chưa chắc đã hiểu hết ý nghĩa của nó. Hôm nay sẽ giải đáp cho bạn vô tri là gì cùng ý nghĩa của vô tri mà nhiều người đang sử dụng hiện nay thông qua bài viết dưới đây nhé. Tóm tắt1 Vô tri là gì?2 Sống vô tri là gì?3 Vô tri là gì trong Phật Pháp Để có thể hiểu vô tri là gì, chúng ta sẽ cùng nhau phân tích từng thành phần cấu tạo nên từ này nhé. Vô nghĩa là không, còn tri là hiểu biết. Vậy nên vô tri là không có sự hiểu biết, thiếu hiểu biết, không có kiến thức. Nhắc đến những thứ vô tri chúng ta hay nói về cây, cỏ, đất, đá,… Vì đây là những vật thể không hề có khả năng nhận biết. Gương mặt vô tri Thế còn người vô tri là gì? Người bị cho là vô tri là những người không có khả năng suy nghĩ, xem xét và giải quyết vấn đề. Người vô tri không biết bản chất cuộc sống, đau khổ, hạnh phúc hay sự xoay vần của cuộc sống. Người vô tri cũng chính là những người không có tư duy, hay hỏi những câu hỏi vô tri, ngớ ngẩn. Sống vô tri là gì? Nhiều người sử dụng cụm từ vô tri thường gắn trước một hành động cụ thể ví dụ như “cười vô tri”, “phát ngôn vô tri”,… Ý họ muốn nói ở đây là những hành động đó không có ý nghĩa gì, không có gì đáng cười cũng cười, cũng nói khiến cho người khác không hiểu được. Kiều Minh Tuấn và những pha cười vô tri Một ví dụ minh họa cho điệu cười vô tri được nhiều người nhắc đến là diễn viên Kiều Minh Tuấn trong show thực tế 2 ngày 1 đêm. Bởi vì sau những tràng cười của anh trong show, nhiều khán giả đã nói rằng đó là cười vô tri. Dù không có miếng hài nào rõ ràng anh đã cười lăn cười bò. Sự vô tri của Tuấn nặng đến mức nhiều khán giả đã có hẳn một câu ngắn gọn để miêu tả bộ đôi anh em Lê Dương Bảo Lâm và Kiều Minh Tuấn là “Chỉ cần Dương Lâm dám nói thì Kiều Minh Tuấn sẽ dám cười”. Thông thường bạn bè thân thiết sẽ thường hay trêu chọc nhau sau khi một người phát ngôn lạc đề, hỏi những câu ngớ ngẩn khiến người khác không hiểu đang nói gì là “sao mà mày vô tri quá”, “con nhỏ này thật là vô tri”,… Thực ra vô tri ở đây ý muốn nói là nói rằng người đó không có hiểu biết, không suy nghĩ nhiều trước khi nói. Vậy nên nếu người nào nói rằng bạn thật vô tri thì hãy chú ý nhé, vì đó có thể không đơn thuần là một câu trêu đùa đâu. Nhân sinh quan là gì? Ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến người Việt Vô tri là gì trong Phật Pháp Theo giáo lý của Đạo Phật, con người ta đều được tạo nên bởi ngũ uẩn gồm có Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức. Trong đó Sắc là phần thân, về những yếu tố sinh lý. Thọ là cảm giác, xúc giác. Tưởng chính là tri giác. Hành là các hiện tượng tâm lý được khởi phát gồm vui, buồn, giận, ghen tị, thương, ghét bỏ. Thức là nơi chứa những cảm thọ và tri giác, ngoài ra thức có chức năng cất giữ nên thức còn được gọi là tàng thức. Vô tri trong Đạo Phật Trong Kinh Pháp Cú, Phật đã dạy rằng tư duy và nhận thức của con người vô tri luôn hướng về ái dục, vì vô tri đôi khi sẽ là chính mình tự che đi sự thật. Vô tri thường gắn liền với tà kiến. Chỉ có tuệ giác chân thực, tức là phải có sự tư duy mới có thể phân biệt và thấy rõ được những bản chất vô thường, khổ, không, vô ngã và từ đây con người có thể ly khai dục, đoạn trừ khổ não. Vậy là bài viết trên đã tổng kết những những nội dung về vô tri là gì, ý nghĩa của vô tri trong cuộc sống và trong Phật Giáo được nhiều người sử dụng. Hãy cùng tìm hiểu thêm nhiều bài viết thú vị khác nhé. Nguồn Tập san ĐA HIỆU số 118 – tháng 1/2020 Triều đại nào rồi cũng qua đi, con người nào dù tài giỏi đến đâu đi nữa rồi cũng mất. Chỉ có lịch sử là không thể mất, cũng không vơi đi mà ngược lại, càng ngày số bài vở bổ túc cho lịch sử càng nhiều hơn, càng phong phú hơn. Vì lịch sử có nhiệm vụ ghi chép lại những sự kiện — ở mỗi triều đại, mỗi giờ, mỗi ngày, hàng năm, hàng thế kỷ, liên tục nối tiếp nhau — xảy ra không ngừng nghỉ theo thời gian. Trong đó còn có cả hình ảnh, chứng tích, và di tích cần lưu lại cho hậu thế. Dĩ nhiên, muốn làm việc này một cách đứng đắn, cẩn thận, chúng ta phải nhờ đến bàn tay/ khối óc của các sử gia chuyên nghiệp, có đức tính luôn tuyệt đối trung thực trước lịch sử. Khi thực thi nhiệm vụ, sử gia không thêm, không bớt, không tuỳ tiện khi ghi chép, hoặc sửa đổi hình ảnh. Một việc làm rất khó khăn, vì các sử gia, ngoài việc bị ảnh hưởng bởi chính kiến hay định kiến, tôn giáo, hay truyền thống gia đình của riêng mình, còn bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp bởi nhà cầm quyền đương thời, đặc biệt là nhà cầm quyền ở thời quân-chủ chuyên-chế và thời Cộng-Sản là những thời mà những tâm tình, và dòng suy tư của con người thường bị cướp đoạt một cách vô tội vạ, bị vo tròn bóp méo theo một định hướng’ bắt buộc, cực kỳ tàn nhẫn. Những sử gia trong các chế độ này muốn trung thực với chính mình cũng đã khó, chứ đừng nói là phải trung thực trước lịch sử. Nhà viết sử nổi tiếng vào thời vua Hán Vũ Đế của nước Tàu là ông Tư Mã Thiên 145-86 trước Công Nguyên được người đời hết sức ca tụng về đức tính khẳng khái và trung thực. Lịch sử nước Tàu đã ghi lại, trong một trận đánh giữa quan quân nhà vua với rợ Hung Nô, vào thời đó có 2 vị tướng được đề cử cùng cầm quân ra trận, có tên là Lý Lăng và Lý Quảng Lợi. Không may trong trận đánh này cả 2 ông đều bị thua trận. Khi phân tích nguyên nhân, thì phần đông các quan cận thần và nhà Vua đều đổ lỗi cho tướng Lý Lăng; chỉ riêng ông Tư Mã Thiên đổ lỗi cho tướng Lý Quảng Lợi và bênh vực cho Lý Lăng. Vì Lý Quảng Lợi là anh vợ của vua Hán cho nên sử gia họ Tư đã bị gán vào tội khi quân’. Kết quả, ông đã bị kết án lăng trì’ là tội tử hình, rồi sau đó được đổi thành tội thiến’. Tuy không bị chết, nhưng bị thiến’ là một hình phạt dã man và nhục nhã nhất vào thời đó, vì người đàn ông không còn khả năng sinh con đẻ cái để nối dõi, một tội rất nặng đối với tông đường của dòng họ mình. Nhưng thà là bị hành hình như thế chứ Tư Mã Thiên nhất định không thể nói sai sự thật. Sự kiện này cho thấy, quan điểm của số đông người tức đa số trong nghị viện ở vào giai đoạn lịch sử nào đó chưa chắc đã là chân lý! Trong xã hội Cộng Sản, các ứng cử viên được đảng cử dân bầu’ rồi được tuyển chọn trong các cuộc bầu cử, được gọi là dân chủ’, giới bình dân gọi là cà chớn’. Họ thường đạt tỷ lệ 99% phiếu bầu cũng là một kết quả bất khả tín, có cùng một ý nghĩa xấu tương tự quyền lực trong chế độ độc tài đồng nghĩa với chân lý!? o O o Nhìn lại cuốn Lịch Sử Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam’ được ra đời lúc gần đây đã phần nào chứng minh cho những khó khăn của các nhà viết sử vừa nêu trên. Trước khi và ngay cả sau khi phát hành cuốn sách này, những khó khăn về sự thống nhất phần nội dung của cuốn sách đã là nguyên nhân của sự chia rẽ trầm trọng giữa các Cựu Sinh Viên Sĩ Quan xuất thân từ cùng một quân trường. Những định kiến của từng cá nhân hoặc của từng nhóm không thể nào phá bỏ được, nếu họ không tự nguyện cùng tôn trọng một quy tắc làm việc chung. Chúng ta không có một phương hướng nào khả dĩ hóa giải được những bất đồng trước và sau khi sự kiện xảy ra; từ đó, đã làm xấu đi bộ mặt truyền thống lâu đời. Thật đáng tiếc! Trường Võ Bị tọa lạc trên đồi 1515 ở Đà-Lạt là phần hình thức, nay đã bị địch xóa bỏ. Còn cuốn sách Lịch Sử Trường Võ Bị’ là phần nội dung, trong đó châm ngôn “Tự Thắng Để Chỉ Huy” mới thật sự có ý nghĩa, xứng đáng là tấm bia đáng truyền tải cho thế hệ mai sau, và cũng là châm ngôn đáng ghi nhớ dành cho những ai muốn chỉ huy người khác. Vấn đề chính cần quan tâm ở đây, trước hết vẫn là vấn đề tự thắng’, các đề mục khác chỉ là phụ. Ngược về thời tiền sử, con người còn ăn lông ở lỗ’, chưa có phương tiện ghi chép, vả lại cũng chưa có khái niệm về lịch sử; cho nên khi cần phải giữ lại điều gì quan trọng, người ta thường truyền miệng, từ miệng người này sang miệng người kia liên tục từ đời này sang đời khác, để nói cho nhau nghe, hiểu, và để cho mọi người cùng biết những gì thiết thực trong cuộc sống cần ghi nhớ, cần giữ lại, được gọi là bia miệng’. Dần dần, con người tiến đến việc sử dụng bia đá’ để ghi nhớ những điều cần nhớ. Các quan chức nổi tiếng về tài, đức, được ghi tạc tên tuổi vào đá để hậu thế tôn thờ hoặc để ghi ơn công đức. Ngay cả những người một thời lều chõng’ lên đường đến kinh đô để tham dự kỳ thi tranh giải trạng nguyên’; nếu vượt qua kỳ thi, thì cũng được ghi tên vào bảng vàng bia đá’. Thế nhưng có một điều gì đó khá đặc biệt, cho nên sau nhiều biến chuyển của lịch sử, trong dân gian ở nước ta mới có câu “Trăm năm bia đá thì mòn, Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.” Nghĩa là bia miệng’ có phần còn nặng ký hơn cả bia đá’ gấp 10 lần. Rồi sau đó, có lẽ tiền nhân ta muốn khuyên răn người đời muốn làm việc gì đó khó khăn mà muốn thành công thì trước hết phải rèn luyện đức tính kiên nhẫn, nên mới có câu nước chảy đá mòn’ tương tự như có công mài sắt có ngày nên kim’ nhưng đồng thời cũng có nghĩa đen ngụ ý, ngay cả bia đá’ cũng có thể bị nước làm xói mòn và mất đi; chứ bia miệng’ là do miệng lưỡi con người tạo ra, rồi truyền tải cho nhau, thì không có cách gì làm mòn được, và nó sẽ còn mãi mãi. Đúng vậy, miệng lưỡi con người là do Tạo Hóa sinh ra, ngay từ lúc bẩm sinh đã có một tố chất rất đặc biệt, không ai giống ai, cho nên một lời nói phát ra từ cửa miệng của một con người, vừa có lợi, và cũng có thể vừa có hại cho chính mình và cho người khác. Cái lưỡi không xương’ nên có thể nắn nót theo kiểu nào cũng được. Vì thế mà lời nói rất lợi/ hại có thể làm thay đổi quan điểm của người khác. Lời nói tốt có thể làm cho gia đình hạnh phúc. Lời nói xấu có thể khiến gia đình tan nát. Tiếng lành đồn xa và tiếng dữ cũng đồn xa; hoặc “Lời nói không mất tiền mua, Liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau…”; đi đôi với lời khuyên “Phải uốn lưỡi 7 lần trước khi nói.” Tôi còn nhớ thời gian trong trại tù “cải tạo”, vào cuối năm 1979. Có một lần sau một ngày lao động vất vả — phá rừng ở vùng Tống Lê Chân, làm trại tù tự nhốt mình, và cuốc đất trồng rau xanh rất cực nhọc –người tù phải tập họp lại để nghe cán bộ quản giáo phê phán, và hắn ta tuyên bố -“Tuyệt đại đa số nà các anh có tinh thần nao động tích cực, rất đáng khen nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số chưa tốt, số đó không phải nà ít.” Một anh bạn cùng ở tù với tôi, ngay sau khi tan hàng, đã hỏi tôi -“Mày có hiểu gì không?” Tôi mỉm cười và lắc đầu để đáp lễ anh. Anh bạn tôi cũng mỉm cười theo. Một chuyện khác, mới đây Ngày 15 tháng 11 vừa qua, trong buổi Impeachment lần thứ hai lần thứ nhất xảy ra vào ngày 13 dành cho Tổng Thống Trump ở Capitol Hill; ông Adam Schiff của đảng Dân Chủ, Chủ Tịch Uỷ Ban Tình Báo Hạ Viện chủ trì việc Impeach, đã 6 lần dùng chiếc “búa KGB” đã một thời được sử dụng thuần thục ở Liên-Bang Sô-Viết, đập xuống bàn để cắt đứt lời nói của các dân biểu Cộng Hòa, mà có lẽ theo ông đoán nhận thì đối phương sắp phóng ra một lời nói có tác dụng sắc bén hơn lưỡi dao, sẽ đè bẹp tiếng nói của ông, làm ông mất mặt, cần phải ngăn lại ngay. Lúc đó tôi ngồi trước màn hình TV, thấy ngỡ ngàng! Quái thật! Tôi tự hỏi Tự Do, Dân Chủ được thể hiện ở ngay điện Capitol Hill dưới sự lãnh đạo của bà chủ tịch Hạ Viện Pelosi, sao mà lạ đời thế!? Tôi bèn liên tưởng đến trại tù ”cải tạo” của VC dành cho các sĩ quan “ngụy” trốn trại sau tù nhân bị nhận bản án bị nhốt vào container hoặc bị bắn, trước khi xử án! o O o Một lần lang thang trên net’, nhiều tin tức cho biết, bia đá — dấu mốc đầu tiên ở cổng Nam Quan phía Bắc Việt Nam đánh dấu việc phân định ranh giới giữa nước Ta và nước Tàu — tôi không biết chính xác là đã được tổ tiên ta xây dựng từ đời nào, mà nay đã mất. Thật đáng buồn! Nhưng rồi tôi lại tự an ủi, bia đá’ mất nhưng bia miệng’ vẫn còn “Nước Việt Nam ta từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau” tôi được học từ ngày mẹ dắt tay đến trường, đến nay vẫn còn nguyên vẹn, không thể mất. Bài ca từ thời tôi học lớp ba ở trường làng, thời mà cô/ thầy giáo được kính trọng như ông bà, cha mẹ. Và tôi đã được nghe cô giáo hát rồi cô bắt học trò cùng hát theo từng câu, từng chữ, không cần phải ghi chép “Nhà Việt Nam, Nam Bắc Trung sáng trời Á Đông, Bốn ngàn năm văn hóa đã đắp xây bao kỳ công, Người Việt Nam cân quắc bao anh hùng, Từng phen nức danh khắp trời Á Đông,…” Đến nay đã hơn 70 năm tôi vẫn còn nhớ được 4 câu đầu của bài ca. Mặc dầu ở tuổi măng non không hề biết xuất Xứ, cũng không hiểu được ý nghĩa của bài ca này; chỉ biết hát theo lời cô giáo như con vẹt học nói. Nhưng đến khi lớn lên, tìm hiểu, tôi mới nhận thức được tạm đủ về ý nghĩa của bài ca, và biết được tác giả là nhạc sĩ Thẩm Oánh. Tôi nghĩ, đây cũng là một thứ bia miệng’. Một số bạn cùng sống tuổi măng non thời Pháp thuộc trước 1954 ở miền Bắc, cùng lớp với tôi đều có những nét đồng dạng bia miệng’ cũng quan trọng không kém gì bia đá’, thậm chí còn có thể quan trọng hơn nhiều, vì lời nói hôm nay có thể rất khác với lời nói ngày mai mặc dầu cùng xuất phát từ một cửa miệng, về cùng một vấn đề. Đứng về phía tôn giáo, nếu bia miệng’ được sử dụng cho việc truyền tải những điều hay lẽ phải thì rất tốt, nhưng nếu nó biến thành khẩu nghiệp’ thì đây là một điều cần phải xa lánh. Còn nếu đứng về phía các chính trị gia thì dù là khẩu nghiệp’ cũng không đáng quan tâm, vì quyền lợi trên hết, quyền lợi cá nhân hay đất nước cũng vậy! Vấn đề còn lại là tuỳ thuộc vào sự lựa chọn của mỗi người, muốn đứng về phía nào, tuỳ thích. Cũng lạ thật! Nếu nói về thời gian, đem so sánh chiều dài của Lịch Sử đã có từ hàng ngàn năm trước với chiều dài của một đời người, thì thật sự đời của một con người không đáng kể. Thế nhưng con người lại đóng vai chủ động trong việc hình thành Lịch Sử. Vậy thì con người có nên tin vào Lịch Sử không? -Xin thưa là còn phải tuỳ thuộc vào người viết lịch sử và người đọc lịch sử, không thể xác định ngay được là có’ hay không’. Con người không thể tồn tại cùng với chiều dài của lịch sử để thực hiện mong ước của mình. Vì con người bị giới hạn về thời gian, còn lịch sử thì vô tận, cho nên, mỗi lần lịch sử sang trang’ là một lần người đọc nghi ngờ về lịch sử. Người đọc sẽ tự hỏi, những gì vừa được ghi lại ở đây liệu có đáng tin cậy không?’ Đó chính là điều mà người đọc cần phải suy nghĩ trước một sự kiện lịch sử được sử gia ghi chép lại, cho dù là mới đây hay trước kia. Ví dụ Chắc chắn chẳng ai tin vào lịch sử do đảng viên Cộng Sản ghi chép, ngoại trừ những người thân của họ và những bạn trẻ sinh sau đẻ muộn trong xã hội Cộng Sản. Lịch sử viết về cuộc chiến tranh Việt-Nam kể từ 1945 đến nay do các sử gia tả phái người Mỹ ghi chép, họ vo tròn bóp méo theo ý mình, rồi được giảng dạy ở các trường đại học vẫn còn là vấn đề tranh cãi, sẽ chẳng bao giờ đi đến kết luận. Tuy vậy nó vẫn được truyền bá không cần biết đúng/ sai. Và thực tế đã cho thấy, những cuộc biểu tình phản chiến’ — trước đây, hoặc ngay bây giờ cũng vậy — của các sinh viên được bắt nguồn từ những sai lầm nghiêm trọng của lịch sử. Và lịch sử, như thế, trong hoàn cảnh đó đã không còn mang tính thuần tuý, nó đã biến thành phương tiện tuyên truyền ! cho dù là vô tình, hay cố ý. Nếu đem một sự kiện lịch sử ra chứng minh về điều mình muốn nói trong lúc sôi máu tranh luận, đôi khi càng làm cho lịch sử trở nên rối ren hơn. Nhưng chắc chắn trong số những rối ren đó phải có một sự thật hiện hữu đã chìm sâu trong dĩ vãng hàng chục năm, có khi hàng trăm năm, hoặc sâu hơn. Vậy thì ai là người có khả năng khám phá ra sự thật đó và thuyết phục được số đông. Một điều không dễ làm! Lúc ấy phải cần đến miệng lưỡi’ của những người vừa có tài thuyết phục, vừa hiểu biết sâu rộng về khoa học biện chứng, và các phương pháp thường dùng trong sử học, như loại suy, đối chiếu, mang tính rất chuyên môn của các sử gia chân chính, mới có thể giúp người khác nhận biết về sự thật lịch sử. Trước đây, khi còn trẻ chúng ta là những chiến sĩ cầm súng ngoài chiến trường, tuy biết rõ một số sự thật nhưng không có khả năng và cơ hội nghiên cứu, cũng như trình bày quan điểm của mình trước công chúng. Bây giờ, chúng ta là những người thua trận, đã mất tất cả! Thế rồi thời gian qua nhanh, những bế tắc càng ngày càng nới rộng hơn trong đời sống, vì tuổi già mau đến, vì trí nhớ bị lão hóa trầm trọng; lực bất tòng tâm’, cho nên phải nhờ đến bàn tay/ khối óc của các bạn trẻ, những người Mỹ gốc Việt đầy năng lực và đầy nhiệt huyết tiếp sức. Vấn đề đặt ra ở đây, không phải là thắng, thua mà là sự thật. Chúng ta đang sống trong xã hội văn minh có nền Tư Pháp đứng đắn thì cho dù sự thật có bị che đậy, lấp liếm bao lâu đi nữa, người ta vẫn có hy vọng tìm lại được; chỉ tiếc là quá trễ! Trần Kim Bảng – K20 Bia mộ là một phần không thể thiếu trong cấu trúc một ngôi mộ đá hoàn chỉnh. Chúng được sử dụng để ghi những thông tin có bản của chủ nhân ngôi mộ đó. Ví dụ như Họ tên, quê quán, tuổi tác, ngày, tháng, năm sinh, ngày, tháng năm mất… Để con cháu đến thăm viếng phần mộ những người đã khuất của nhà mình, sẽ không bị nhầm lẫn với phần mộ của người khác. Nếu như trước đây, bia mộ thường được khắc trên gỗ, xi măng… Thì nay với sự phát triển xã hội, con người cũng yêu cầu cao hơn về mặt thẩm mỹ cũng như chất lượng. Để sao cho không chỉ thể hiện được vẻ đẹp bên ngoài, mà còn trường tồn mãi mãi với thời gian. Ngày nay, các mẫu bia mộ đẹp thường được làm bằng đá tự nhiên hoặc đá Granite “đá hoa cương” là phổ biến nhất. Đá Mỹ Nghệ 35 sẵn sàng giải đáp mọi thắc mắc và tư vấn miễn phí qua Hotline 1 Gọi, nhắn tin, zalo Hotline 2 Gọi, nhắn tin, zalo * Quý khách Click trực tiếp vào số điện thoại để tạo cuộc gọi trên di động Bia mộ được coi là “bộ mặt” của một tổng thể cấu trúc một ngôi mộ hoàn chỉnh. Bia mộ thường được sử dụng để ghi danh tính của chủ nhân ngôi mộ đó. Để con cháu có thể dễ dàng tìm hiếm mỗi khi đến hương khói, thời phụng, hay đi tảo mộ. Đồng thời, nhờ có danh tính được ghi trên bia mộ, sẽ tránh việc nhầm lẫn với các ngôi mộ khác. Bia mộ thường được làm từ nhiều nguyên liệu khác nhau, như xi măng, gỗ… Những vật liệu này còn có một số như yếu điểm khó khắc phục Độ bền kém, dễ bị thấm nước, múc nát, côn trùng phá hoại vật liệu gỗ và dễ bị ảnh hưởng bởi những yếu tố khắc nghiệt của thời tiết. Những năm gần đây các sản phẩm bia mộ đá, mộ đá được rất nhiều gia đình ưa chuộng. Bởi chúng hoàn toàn nổi trội cả về mặt chất liệu bền bỉ, cũng như tính thẩm mỹ khá cao. Hơn nữa, các đường nét chạm khắc rất tinh tế, tinh xảo… Bia mộ được làm từ chất liệu gì? Đúng như tên gọi của mình, bia mộ sử dụng chất liệu đá tự nhiên là chính. Chúng được khai thác chủ yếu ở các vùng núi đá già thuộc tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa. Bởi khi chế tác bia mộ bằng loại đá này, sẽ đem lại độ bền và thể hiện được những đường nét hoa văn nội dung khắc trên bia. Ý nghĩa của bia mộ trong đời sống. Bia mộ được làm từ đá được dùng để ghi lại thông tin của người đã khuất, ông bà, tổ tiên. Với nội dung được khắc ghi trên các tấm bia đá, bia mộ đề thể hiện một giá trị hay những ý nghĩa khác nhau. Ngoài ra, chúng còn có ý nghĩa truyền tải nội dung, thông tin để lại cho hậu thế. Bia đá, còn mang những ý nghĩa về nghệ thuật và giá trị kiến trúc của các thời kỳ nào đó. Theo văn hóa trong phong thủy của người Việt ta, thì bia đá, bia mộ đều có những ý nghĩa riêng. Chúng giúp con cháu ghi lại danh tính, những thông tin của người đã khuất. Hơn nữa, nó còn được vị như một chiếc “cầu nối”. Giữa ông bà tổ tiên với con cháu hiện tại và đời sau này. Phần mộ có tốt thì cũng yêu cầu phải có một tấm bia mộ chỉnh chu, đẹp đẽ. Thì con cháu mới có thể an lòng, yên tâm làm ăn, phát triển kinh tế và gặp nhiều may mắn. Điều tối kỵ nhất trong phong thủy đó là để bia mộ bị nứt, vỡ hay bị gãy. Nếu như hàng ngàn năm trở về trước thì bia đá thường được sử dụng. Để ghi công trạng của những người có công với đất nước. Ngoài ra, bia đá còn có ý nghĩa giới thiệu về lịch sự của địa điểm hay di tích lịch sử đó. Còn với sự phát triển cuộc sống hiện đại ngày nay, bia đá được sử dụng cho rất nhiều mục đích khác nhau. Phổ biến nhất là tại các di tích văn hóa, công trình kiến trúc lịch sử, hay các phần mộ của người đã khuất gia đình, khu lăng mộ đá. Nên viết những gì trên bia mộ. Thông thường trên bia mộ ghi lại các thông tin cá nhân của chủ nhân ngôi mộ đó, có thể kể đến như Họ tên người đã khuất, quê quán, tên hiệu khi đương thời Nếu có. Ngày, tháng, năm sinh – ngày, tháng, năm mất “Ghi đầy đủ cả ngày tháng âm lịch và dương lịch”, hưởng thọ. Ngoài ra, có thể ghi thêm một số thông khác theo yêu cầu của gia đình. Ngoài những thông tin được ghi bằng chữ, trên bia mộ còn có ảnh của người đã khuất. Thêm vào đó, trên bia còn được trang trí nhiều hoa văn đẹp mắt như Hình hoa sen, hình cuốn thư, hình rồng… Những loại bia đá này thường dùng cho người đã khuất theo Đạo Phật hay không theo một tôn giáo nào nhất định. Đối với những người có công với đất nước hay liệt sĩ thì trên bia mộ còn được ghi thêm về tiểu sử, công lao khi còn sống… Còn đối với phần mộ của người theo công giáo thì trên bia thường có những thông tin như Tên họ của người đã mất, gồm có tên thường gọi và tên Thánh. Ngày sinh ngày mất ghi đầy đủ cả dương lịch và âm lịch. Điểm khác biệt, những ngôi mộ đá bên công giáo, ở phần bia mộ đá thường được gắn thêm hình cây thánh giá. Kích thước bia mộ đúng chuẩn phong thủy. Dựa vào tổng thể của từng khu lăng mộ đá, hay hình dạng cụ thể của mỗi ngôi mộ như Mộ đá tròn, mộ đá 1 mái, 2 mái, 3 mái, mộ đá công giáo, lăng giác, lục giác… Cùng với yêu cầu của từng gia đình mà kích thước bia mộ được điều chỉnh cho phù hợp. Để sao cho kích thước đá hài hòa và đồng đều với tổng thể của ngôi mộ đó. Hiện nay, kích thước bia mộ thông dụng nhất là 18 x 22 cm và 22 x 25 cm. Đây là 2 kích thước chuẩn và phổ biến nhất, được lựa chọn nhiều nhất. Với những ngôi mộ thông thường. Ngoài ra, để biết được kích thước bia đá chính xác nhất và ưng ý nhất. Hãy liên hệ trực tiếp với Đá Mỹ Nghệ 35 để được tư vấn chi tiết. Các mẫu bia mộ phổ biến hiện nay. Hiện nay, cuộc sống xã hội đã có rất nhiều thay đổi bia mộ – bia đá được sử dụng với rất nhiều mục đích khác nhau. Các mẫu bia mộ phổ biến nhất hiện nay gồm có Mẫu bia đá ghi công đức. Dường như đây là mẫu bia đá mà ta có thể dễ dàng thấy nhất. Ở các di tích lịch sử, bia đá thường dùng để ghi tên những người có công lao trong việc xây dựng, giữ gìn và bảo vệ các tổ quốc. Hay những công trình có giá trị lịch sử và sự phát triển bền vững lâu dài. Bia đá công đức này thường được đặt trong nhà thờ họ, từ đường, đình làng, chùa miếu… Mẫu bia đá ghi lại công danh. Những sản phẩm bia đá dùng để ghi công danh, thường được đặt ở khu du lịch, danh lam thắng cảnh, khu di tích… Mẫu bia này không chỉ là lưu lại những tên người có công, mà còn được sử dụng để ghi lại tên địa điểm, các linh vật linh thiêng hay cây cổ thụ lâu đời… Mẫu bia mộ anh hùng, liệt sĩ. Mẫu bia mộ liệt sĩ thường được chế tác từ đá. Trên bia thường ghi lại tên tuổi và tất cả những thông tin liên quan tới liệt sĩ đó. Những người anh hùng của dân tộc đã hi sinh thân mình vì độc lập, tự do của nhân dân và tổ quốc. Không phải ngẫu nhiên mà những tấm bia mộ liệt sĩ được khắc trên chất liệu đá. Do chất liệu đã có độ bền khá cao, dù trải qua hàng trăm năm cũng không làm phai mờ đi tên tuổi anh hùng liệt sĩ. Để giúp cho người thân có thể dễ dàng tìm được phần mộ liệt sĩ là anh em, cha ông của mình. Để đưa hài cốt các anh về với gia đình. Mẫu bia đá trên lưng rùa. Khi bạn ghé thăm văn miếu Quốc Tử Giám ta có thể dễ dàng bắt gặp rất nhiều những tấm bia đá nói chung, hay các tấm bia đá trên lưng rùa. Trên bề mặt tấm bia thường ghi danh những người đã thi đỗ các kỳ thi khoa cử, trạng nguyên, bảng nhãn xưa kia tại Văn Miếu Quốc Tử Giám. Và những chú rùa đội bia giờ đây đã khá quen thuộc với các sĩ tử thời nay. Thêm vào đó, việc kế thừa và phát huy nét đẹp truyền thống văn hóa đó. Mẫu rùa đội bia đá hiện nay cũng được để tại những công trình tâm linh như nhà thờ họ, từ đường, còn các dòng họ lớn. Chúng lưu lại tên tuổi con cháu trong dòng họ của mình, đã có những thành tích tốt, trong học tập hay sự nghiệp. Mẫu bia mộ đá gia đình. Những mẫu bia mộ dùng cho những người đã khuất trong gia đình, thường được ghi lại những thông tin cơ bản của người đã khuất. Việc sử dụng những tấm bia mộ đá, cho độ bền cao đem lại nhiều lợi ích trong việc lưu giữ thông tin dù trải qua hàng trăm năm. Để con cháu đời sau có thể nhận biết được ông bà tổ tiên của mình. Hiện nay, các mẫu bia mộ đá tại Đá Mỹ Nghệ 35 có kiểu dáng, mẫu mã, kích thước đa dạng. Nên rất thuận tiện cho khách hàng lựa chọn mẫu ưng ý nhất. Mời Quý bạn cùng tham khảo các mẫu bia đá đẹp nhất! Bia mộ đáXem thêm Rùa đội bia đáXem thêm Mẫu bia rùa đá đẹp do thợ đá Ninh Bình chế tác, hình ảnh bia đá đặt trên lưng rùa có ý nghĩa về sự bền vững và tri thức…Read More Tại sao bia đá trong Văn Miếu Quốc Tử Giám lại đặt trên lưng rùa ? Bởi vì rùa tượng trưng cho sự trường tồn, còn bia đá thể hiện…Read More Hình ảnh rùa đội bia đá đẹp do thợ đá chúng tôi chế tác, mẫu rùa đội bia đẹp được nhiều nơi sử dụng hiện liệu đá xanh Thanh…Read More Địa chỉ làm bia rùa đá, địa chỉ sản xuất rùa đội bia đá, bia đặt trên lưng bán bia rùa tốt nhất tại Việt phẩm có độ…Read More Giá bán rùa đội bia đá rẻ cạnh tranh, vận chuyển và lắp đặt toàn quốc sản vấn thiết kế các mẫu bia đá đẹp và mẫu rùa đẹp. Bia đá đẹpXem thêm

bia đá vô tri giờ đây có nghĩa gì đâu